Bạn đang đọc truyện online miễn phí Chương 6: Nam Bình song nữ hoan tương ngộ – Đệ huynh tương kiến bất tương tri tại dưa leo tr.
Nhưng cuối cùng vì sợ Tam Hoàn bang kéo đại quân lục soát thành Ninh Đức nên Hồi Phong Kiếm Chu Đan Khâu quyết định đưa mọi người đi nơi khác.
Đó là một tòa sơn trang nằm ở chân ngọn núi thấp, cách thành Ninh Đức sáu dặm về phía Đông.
Trang viện này có cái tên rất thơ mộng, “Thủy Tú sơn trang”. Căn nguyên là do có một dòng suối nhỏ từ trên núi chảy qua địa phận này. Người ta chỉ biết chủ nhân là một viên ngoại họ Lý. Tướng mạo lão phương phi và phúc hậu, dù tuổi mới năm mươi.
Chỉ một mình Hồi Phong Kiếm biết lão là Dạ Điểu Lý Kỳ Hân, cao thủ Hắc đạo đất Sơn Đông. Họ Lý bị triều đình truy nã vì tội cướp sạch tài sản và giết bảy vị quan triều đình sáu năm trước, Lý Kỳ Hân bị quan quân Giang Tô phát hiện, vây bắt. Lão bị trúng ba phát tên vào chân và bụng, sắp sửa sa vào tay triều đình. Thời may, Hồi Phong Kiếm đi ngang qua. Chu Đan Khâu vốn nặng lòng chán ghét quan quân nên bịt mặt phá vây, giải cứu Kỳ Hân. Sau việc này, Dạ Điểu lạy Hồi Phong Kiếm làm huynh trưởng.
Họ Lý gom góp số tài sản cướp được, về Phúc Kiến mua tòa sơn trang này. Thỉnh thoảng lão vẫn xuất trang, thăm hỏi tài sản và sửa trị bọn tham quan ở các phủ lân cận. Đồng đạo võ lâm biết rõ rằng phụ thân của Lý Kỳ Hân bị bọn tham quan ức hiếp, đánh chết giữa công đường nên lão đã thề đem cả cuộc đời ra để trả thù.
May thay, hôm nay Dạ Điểu không đi đâu cả. Nghe tiếng huýt sáo quen thuộc của Chu Đan Khâu, lão bảo tên đệ tử ra mở cửa và sai hai tên còn lại xuống bếp.
Dạ Điểu phân phó xong thực đơn, rảo bước ra đón khách. Thấy bốn người cõng ba người, lão biết ngay có chuyện lớn.
Hồi Phong Kiếm nghiêm giọng :
– Lý lão đệ, ngươi có được linh đan diệu dược gì quý giá nhất thì mau đem hết ra đây.
Nhìn nét mặt trầm trọng của họ Chu, lão tự hỏi nạn nhân là ai. Nhưng đây không phải là lúc hỏi han, lão gật đầu rồi chạy vào thư phòng, mở tủ ra lấy một gương gỗ nhỏ.
Lúc quay lại thì thấy ba nạn nhân đang nằm trên những tấm nệm trắng tinh. Chắc Chu lão đã báo bọn đệ tử mang ra.
Hồi Phong Kiếm đang bắt mạch cho chàng trai áo đen. Lão ngẩng đầu lên bảo :
– Hai người kia chỉ bị thương ngoài da, ngươi sai đệ tử xức thuốc và băng bó cho họ.
Giới Hắc đạo chẳng thế vác mặt đi tìm đại phu mỗi lúc bị thương nên phải tự chăm sóc lấy. Thuốc kim sang của Dạ Điểu thuộc loại tốt nhất, lão dặn dò đệ tử rồi đến bên Hồi Phong Kiếm.
Lúc này, Thiết Diện Cuồng Sư, Bạch Bì quả phụ và Ma Ảnh Tử đều đã cởi bỏ khăn che mặt, Cuồng Sư khoan khoái lột phăng mái tóc giả rồi than thở :
– Bao nhiêu năm nay không có tóc, giờ đội mớ lông này vào thật khó chịu.
Lý Kỳ Hân nhận ra hung thần, giật bắn mình. Ba người kia đều có bản lãnh và thân phận cao hơn lão trong giới Hắc đạo, nhất là Chung Ðối Nguyệt.
Nhung càng lạ hơn khi Bạch Bì quả phụ mắng Cuồng Sư :
– Ngươi có câm miệng lại chưa?
Chung Ðối Nguyệt hổ thẹn cúi đầu nói lí nhí :
– Tiểu đệ quên mất là thiếu chủ đang thọ thương.
Hồi Phong Kiếm biết Dạ Điểu thắc mắc đầy bụng nên thở dài bảo :
– Ta coi lão đệ như ruột thịt nên mới đưa những người này đến đây. Bọn chúng ta là anh em ruột, cùng mang họ Chung. Còn chàng công tử đang mê man này là thiếu chủ của chúng ta. Nếu hôm nay không cứu được chàng thì anh em ta chỉ có cách là tự sát mà tạ tội.
Lý Kỳ Hân kinh hãi :
– Chẳng hay quý chủ nhân bị thương bởi loại công phu gì?
Bạch Bì quả phụ sa lệ đáp thay đại ca :
– Thiếu chủ một mình đấu với Phượng Hoàng đài chủ và Tây Giang song quỷ. Tuy người đả thương được chúng nhưng cũng bị trúng chưởng của Song quỷ và bị cạn chân khí.
Dạ Điểu trợn mắt, không ngờ bản lãnh của chàng trai này lại cao siêu đến như vậy. Lão ấp úng :
– Trong rương này có mấy lạng sâm già trăm năm, không biết có tác dụng gì không?
Nãy giờ, bọn Cuồng Sư đã đem công lực bản thân truyền vào người Sĩ Mệnh để bảo vệ tâm mạch và cố đả thông các đoạn kinh mạch bị bế tắc. Nhưng tiếc là không thành công, chàng vẫn mê man không biết gì, thỉnh thoảng máu lại trào ra khóe miệng.
Bạch Bì quả phụ không kiềm chế nổi, bặt khóc nức nở. Bỗng Ma Ảnh Tử quát lên :
– Có người đến.
Cuồng Sư vội nhảy ra chặn cửa, nhưng thấy đối phương là một nàng thiếu nữ đẹp tuyệt trần nên lưỡng lự không ra tay ngay. Nữ lang sa lệ nói :
– Tiểu nữ là biểu muội của Tây Môn công tử, xin các hạ cho vào thăm chàng.
Hán tử đi theo nữ lang cũng nói :
– Nàng ta là cháu của Huyện lệnh phu nhân Lâm Mỹ Phụng. Chung các hạ đừng nghi ngại.
Thấy hai người có vẻ vô hại, Cuồng Sư cho họ vào. Bội Linh chạy đến bên Sĩ Mệnh, thấy mặt chàng không chút huyết sắc, mắt nhắm nghiền, nàng phục xuống khóc òa :
– Tướng công ơi! Lẽ nào chàng lại bỏ thiếp mà đi. Thiếp đã biết lỗi mình, đến đây xin chàng lượng thứ. Nào ngờ chàng lại lâm vào tuyệt cảnh thế này.
Bạch Bì quả phụ là nữ nhân nên thân cận với Lâm đại nương. Bà đã biết việc đính hôn giữa Sĩ Mệnh và Trình Bội Linh, Tô Thiếu Phân cau mày hỏi Hà Bắc Lãng Tử :
– Phải chăng nàng ta chính là Trình Bội Linh, ái tử của Động Đình Nhất Bá Trình Thiên Cường?
Dương Tiểu Hào gật đầu :
– Thưa phải! Nàng còn là vị hôn phu của Tây Môn công tử nữa.
Bọn Cuồng Sư giữ lễ, vòng tay nói :
– Chúng thuộc hạ bái kiến thiếu phu nhân.
Dạ Điểu bỗng bước đến bên Bội Linh, nghiêm giọng bảo :
– Nếu cô nương muốn cứu Tây Môn công tử thì xin hãy bình tâm nghe lão phu nói.
Bội Linh nghe vậy liền gạt nước mắt, đứng lên nhìn họ Lý. Nàng nhớ ra mình có quen với lão già này :
– Phải chăng các hạ là Lý ngũ thúc, trước đây có đến chơi tệ xá?
Dạ Điểu gật đầu :
– Chuyện đã bảy năm mà cô nương vẫn nhớ được, trí nhớ quả là rất tốt.
Cuồng Sư bực mình gắt :
– Bây giờ đâu phải là lúc nhận người quen. Thiếu chủ uống hết nhánh sâm mà vẫn chưa tỉnh lại, thế mà lão còn cà kê gì nữa?
Lý Kỳ Hân khoát tay hỏi tiếp :
– Xin hỏi trước khi lên đường, lệnh tôn có trao cho cô nương linh đan để phòng thân hay không?
Bội Linh gật mình, sờ thắt lưng rồi đáp :
– Thưa có! Gia phụ đưa cho tiểu nữ một lọ ngọc nhỏ và dặn rằng khi nào thọ thương hay trúng độc thì uống vào.
Dạ Điểu mừng rỡ hỏi ngay :
– Thế cô nương đã uống chưa?
Bội Linh lắc đầu, lấy lọ ngọc ra, đưa cho Dạ Điểu xem. Họ Lý chụp lấy, mở nắp trút ra bàn tay rồi phá lên cười :
– Trời cao có mắt, với viên Ngũ Hành thần đan này thì chẳng ai có thể chết được.
Lão quay sang Hồi Phong Kiếm :
– Ân huynh mau cho thiếu chủ uống ngay. Đây là tiên đan của Ngũ Hành lão nhân đấy.
Chu Đan Khâu mừng rỡ, nhét ngay vào miệng Sĩ Mệnh, và bảo Bạch Bì quả phụ dùng muỗng đổ nước cho thuốc trôi xuống. Lão nắm tay chàng, chờ xem mạch có rung lên hay không? Mọi người giương cặp mắt lo âu, cảm thấy thời gian như đông cứng lại.
Lát sau, Chu Đan Khâu mở nụ cười, mạch của Sĩ Mệnh đã đập đều đặn. Lão vội đỡ chàng lên, rồi đặt tay vào mệnh môn truyền chân khí. Bội Linh và Tô Thiếu Phân thì mừng rỡ giữ hai bên vai chàng.
Hồi Phong Kiếm kiệt sức thì đến lượt Cuồng Sư, cuối cùng thì Sĩ Mệnh thở mạnh, mở mắt ra. Người đầu tiên chàng thất chính là Bội Linh, chàng mỉm cười nói thều thào :
– Biểu muội trở lại rồi đấy ư? Ta nhớ nàng lắm!
Bội Linh vừa sung sướng vừa thẹn thùng :
– Tiểu muội chẳng bao giờ ghen hờn nữa đâu!
Chàng quay sang nhìn mọi người, gật đầu cảm kích bảo :
– Ta đã có thể tự hành công, chư vị không nên phí sức nữa.
Sĩ Mệnh nhập định đến sáng thì thương thế hoàn toàn bình phục. Cả đêm không ngủ nhưng ai cũng hân hoan, phấn khởi.
Ba gã đệ tử của Dạ Điểu đã bày cơm rượu để ăn mừng.
Sau khi giới thiệu Dạ Điểu Lý Kỳ Hân với Sĩ Mệnh, Hồi Phong Kiếm hỏi thêm :
– Lý lão đệ, vì sao ngươi lại biết Động Đình Nhất Bá có Ngũ Hành thần đan?
Dạ Điểu cười khà khà đáp :
– Bảy năm trước, tiểu đệ lưu lạc đến Hồ Nam lánh nạn, nào ngờ bị đám Bộ đầu theo dõi. Tiểu đệ cùng đường mới vào Trình gia trang thú thật với Trình lão và xin nương náu. Động Đình Nhất Bá là người trượng nghĩa, biết tiểu đệ tuy là trọng phạm của triều đình nhưng chỉ giết bọn tham quan. Lão khẳng khái nhận lời và bảo đám bộ đầu rằng tiểu đệ là Trình Oai, bà con ở Hà Bắc đến chơi. Nhờ vậy, đám bộ đầu mới không nghi ngờ tiểu đệ là kẻ bị truy nã. Ở chơi được vài ngày, tiểu đệ sợ liên lụy đến Trình lão nên bỏ đi Giang Tô. Trước khi đi, tiểu đệ đã tặng viên Ngũ Hành thần đan này cho Trình Thiên Cường. Lúc gặp Động Đình Long Nữ, tiểu đệ chỉ hỏi cầu may thôi. Ai ngờ hoàng thiên hữu nhãn nên Thiên Cường đã trao linh đan cho ái nữ phòng thân.
Thiên Lý Nhãn Lã Thiên Huy và Xuyên Vân Nhạn Hồ Gia Cư đã khá hơn nên cũng có mặt trong bàn tiệc.
Họ Hồ góp lời :
– Tại hạ là bằng hữu của Tổng bộ đầu phủ Hồ Nam. Mấy năm trước, có nghe lão kể rằng đã nhận ra lai lịch của các hạ, nhưng vì nể mặt Động Đình Nhất Bá nên mới bỏ qua. Địch Thiên Lạc có mỹ danh là Văn Hương Báo, nổi tiếng là người chỉ cần ngửi mùi người cũng biết ngay gian.
Hà Bắc Lãng Tử vốn tự hào về khứu giác của mình nên tự ái nói :
– Làm gì có chuyện ấy? Để có dịp nào tại hạ so tài cùng với lão ta xem sao.
Cuồng Sư đang tìm Ngũ Hành sơn nên rất chú ý đến Ngũ Hành thần đan. Lão hỏi Dạ Điểu :
– Xin Lý huynh nói rõ là đã lấy được viên tiên đan kia ở địa phương nào?
Lý Kỳ Hân vui vẻ đáp :
– Tại hạ quê Sơn Đông, trong một lần đến chơi núi Thái Sơn, được diện kiến Ngũ Hành lão nhân và người đã ban cho viên thuốc ấy. Lão nhân còn nói rằng tại hạ không có duyên dùng linh đan, nếu muốn tặng ai thì cứ tặng. Chính vì vậy nên tại hạ mới trao cho Trình lão.
Cuồng Sư bực bội lẩm bẩm :
– Bọn ta đã lục soát từng tấc đất trên núi Thái Sơn mà có thấy gì đâu? Chẳng lẽ lão quỷ Ngũ Hành kia lại có phép ẩn thân?
Dạ Điểu cười bảo :
– Té ra việc Chung lão huynh có bản đồ Ngũ Hành cung là sự thật?
Hồi Phong Kiếm bỗng nghiêm giọng :
– Hơn hai mươi năm trước, Huyện lệnh Lai Vu hại chết lệnh tôn và ba năm sau lão lại bị cách chức, đuổi về làm thứ dân. Nhờ vậy, Lý lão đệ mới giết được lão ta mà báo thù. Vậy lão đệ có biết ai là người đã vạch tội lão ác quan ấy không?
Lý Kỳ Hân bối rối lắc đầu. Chu Đan Khâu gật gù tiếp lời :
– Vị đại thần ấy chính là Hình bộ Thượng thư, thân phụ của Tây Môn công tử đây. Lúc ấy bọn ta làm hộ vệ của người nên biết rõ chuyện này.
Dạ Điểu biến sắc, run rẩy nói :
– Tiểu đệ thọ ân của Tây Môn thượng thư mà không biết, kiếp này xin theo hầu công tử để báo đáp.
Lão bèn phục xuống lạy Sĩ Mệnh :
– Lý Kỳ Hân xin bái kiến thiếu chủ.
Sĩ Mệnh vội rời ghế, đỡ lão lên rồi nói :
– Tiên phụ chỉ làm hết nghĩa vụ của mình, các hạ chớ làm vậy!
Ma Ảnh Tử là người rất ít nói, thế mà giờ đây gã lại mở miệng :
– Thiếu chủ, Dạ Điểu Lý Kỳ Hân là người tinh minh lão luyện, tài đạo chích đứng đầu Hắc đạo. Trong cuộc chiến với Tam Hoàn bang, chúng ta rất cần những người tài như vậy.
Sĩ Mệnh biết gã nói đúng bèn chỉnh sắc bảo :
– Lý các hạ đã có lòng, tại hạ không dám không tuân. Ngôi thứ tuy phân chia nhưng xin được xem nhau như huynh đệ.
Thiên Lý Nhãn và Xuyên Vân Nhạn cũng vòng tay nói :
– Mạng này là do công tử ban cho, bọn lão phu cũng xin theo gương Lý huynh theo phò họ Tây Môn. Thân mang thương nên không thể thi đại lễ, mong thiếu chủ lượng thứ.
Hồi Phong Kiếm cười hả hả :
– Hay lắm! Được nhị vị Bộ đầu liên thủ, lực lượng chúng ta sẽ mạnh hơn.
Hà Bắc Lãng Tử nghe toàn thân ngứa ngáy, sụp ngay xuống :
– Xin thiếu chủ nhận luôn Dương Tiểu Hào tôi làm thủ hạ.
Sĩ Mệnh mỉm cười :
– Theo vai vế thì tại hạ phải gọi Dương các hạ là sư huynh.
Tiểu Hào gạt ngay :
– Không được! Nếu thế thì làm sao mà tại hạ có thể hòa nhập với các hảo hán kia? Chẳng lẽ bọn họ cũng phải tôn kính một kẻ tiểu tốt như Tiểu Hào này?
Bảy người kia bật cười, đốc thúc Sĩ Mệnh nhận lời. Dương Tiểu Hào khoái chí vái Bội Linh :
– Tiểu huynh xin ra mắt thiếu phu nhân.
Bội Linh đỏ mặt thẹn thùng và cả nhà ôm bụng cười.
Bạch Bì quả phụ lên tiếng :
– Mười người chúng ta dù toàn là hảo thủ nhưng cũng chẳng thể so sánh được với lực lượng Tam Hoàn bang, thuộc hạ cho rằng thiếu chủ phải ẩn nhẫn, chờ tìm được Ngũ Hành cung học thành tuyệt nghệ rồi hãy đối địch với quần ma. Tam Hoàn bang chủ thân phận cao cả, mục hạ vô nhân tất sẽ nhận lời khiêu chiến. Nếu thiếu chủ giết được lão thì Tam Hoàn bang sẽ tự động tan rã.
Sĩ Mệnh thầm khen bà là người cao kiến, gật đầu tán thành :
– Nhị nương bàn rất phải, có điều là chúng ta vẫn chưa biết vị trí của bí cung. Nếu vài năm nữa mới tìm ra thì sao?
Hồi Phong Kiếm buồn rầu nói :
– Hai mươi năm qua, bọn thuộc hạ đã thám hiểm tất cả những địa phương có liên quan đến chữ ngũ, như Ngũ Hành sơn, Ngũ Lĩnh, Ngũ Lăng, Ngũ Hồ, thế mà vẫn không có kết quả gì.
Sĩ Mệnh lẩm bẩm :
– Lạ thực! Tại sao Ngũ Hành lão nhân lại không nói rõ cho tiên phụ biết tọa lạc của bí cung nhỉ? Các vị cho ta xem thử họa đồ.
Hồi Phong Kiếm vội vàng lấy trong búi tóc ra một cục sáp ong. Lão bẻ lớp sáp, trao mảnh da dê cũ kỹ cho chàng. Sĩ Mệnh quan sát một hồi mỉm cười :
– Tại hạ biết Ngũ Hành cung ở đâu rồi!
Cả bọn mừng rỡ ồ lên. Cuồng Sư nói với giọng thán phục :
– Thiếu chủ quả là thần nhân, chỉ mới nhìn đã tìm ra ngay.
Sĩ Mệnh lắc đầu :
– Ta chẳng phải là tài ba gì đâu. Đây chính là năm ngọn núi nhỏ trong dãy Hoàng Sơn. Ta thường đứng trên đỉnh cao nhất là Hải Bạt mà ngắm cảnh nên nhận ra ngay. Chư vị nhìn từ dưới lên chẳng thể nào thấy được.
Bạch Bì quả phụ bật cười :
– Ngũ Hành lão nhân quả là bậc thần tiên, phu nhân có kể rằng khi trao bức họa đồ này, lão ta có chỉ công tử mà nói một câu: “Rất dễ tìm, ngay thằng bé kia cũng biết”.
Cuồng Sư vò chiếc đầu láng bóng :
– Biết vậy chúng ta chẳng cần phải phí công tìm kiếm làm gì.
Xuyên Vân Nhạn bỗng hỏi :
– Thiếu chủ là người học đạo tam thanh, vậy có biết Tùy Vân đạo trưởng hay không?
Sĩ Mệnh gật đầu :
– Ông ấy chính là đại sư huynh của ta.
Hồ lão biến sắc nói :
– Thế thì nguy rồi. Tối qua, trong lúc bị tra hỏi, thuộc hạ có thoáng nghe bốn lão ma đầu kia nói rằng Tam Hoàn bang đã cử một toán cao thủ đến Tây Hồ để điều tra xem lão đạo sĩ già, trên ngọn núi phía Bắc Hồ có phải là Tùy Vân đạo trưởng hay không?
Sĩ Mệnh lo lắng bảo :
– Đúng là đại sư huynh đang ẩn cư nơi ấy. Như vậy ta phải đi ngay mới được.
Bốn anh em họ Chung đòi đi theo. Sĩ Mệnh đắn đo suy nghĩ rồi bảo :
– Tam Hoàn bang tìm Tùy Vân đạo trưởng tức là đã có ý nghi ngờ hậu duệ của họ Tây Môn còn sống. Dù chúng không biết tên ta nhưng chỉ cần gặp đại sư huynh là đoán ra ngay. Do đó, sinh mạng của Lâm đại di cũng sẽ bị đe dọa. Chư vị phải ở lại Nam Bình bảo vệ cho bà và gia quyến. Nếu để bọn tà ma bắt được bà dùng làm con tin uy hiếp ta thì hậu quả khó lường. Chỉ mình Ma Ảnh Tử theo ta là đủ.
Hồi Phong Kiếm gật đầu :
– Thiếu chủ nói không sai, bọn thuộc hạ sẽ về ngay Nam Bình bảo vệ tư dinh Hà huyện lệnh. Đồng thời sẽ cho Dạ Điểu đi tập hợp một số anh em Hắc đạo thân tín để làm tai mắt.
Sĩ Mệnh thấy Động Đình Long Nữ nhìn mình với vẻ khẩn cầu, ý là muốn đi theo. Chàng liền an ủi :
– Cứu nhân như cứu hỏa, phải kiêm trình ngày đến rất vất vả. Linh muội không kham nổi đâu. Hãy về Nam Bình với đại di chờ ta quay lại.
Lát sau, chàng và Ma Ảnh Tử Hạ Sầu Miêu đã ở trên lưng ngựa, ra roi phi nước đại.
* * * * *
Lúc này thì Tây Hồ Tiên Nữ và Đông Môn Thù đã đến Nam Bình. Trước tiên, nàng vào Phân đà Cái bang để hỏi tin. Tình cờ có Truyền Công trưởng lão Độc Cước Cái Đặng Nhất Quân hiện diện. Lão từ Tổng đàn Lạc Dương đến Phúc Kiến thị sát Phân đà.
Họ Đặng đã từng đến Hàng Châu thăm Giang Nam Thần Kiếm nhiều lần nên biết Dư Tiểu Phàm. Lão mừng rỡ hỏi :
– Dư diệt nữ đi đâu mà lại có mặt nơi này?
Nàng e lệ đáp :
– Đặng bá bá, tiểu nữ đang truy tung một người. Gã đến Nam Bình nhưng không hiểu đã vào nhà nào.
Phân đà chủ Nam Bình là Nho Y Cái cười khà khà :
– Chắc gã đã mạo phạm đến Tây Hồ Tiên Nữ?.
Tiểu Phàm bối rối, đành gật đầu cho qua chuyện :
– Thưa phải! Gã ta tuổi độ hai mươi bảy, mặt mũi hiền lành chất phác, cưỡi một con ngựa đen tuyền. Gã thường mặc áo thư sinh màu trắng hoặc xanh.
– Được! Ta sẽ bảo các đệ tử tìm ngay.
Độc Cước Cái bỗng nhận ra Đông Môn Thù có những đặc điểm giống như giang hồ truyền tụng, lão liền hỏi :
– Tiểu Phàm! Phải chăng chàng thiếu hiệp này chính là người đã giết Hấp Tinh Nhân Ma, cứu ngươi thoát nạn?
Tiểu Phàm gật đầu :
– Thưa phải! Nhưng chuyện mới xảy ra sao Đặng bá bá lại biết?
Lão ăn mày già cười đắc ý, vuốt râu nói :
– Bổn bang có mặt khắp thiên hạ, phương pháp truyền tin lại linh thông, có chuyện gì mà không biết?
Tiểu Phàm nhân dịp này đưa ra yêu cầu :
– Đặng bá bá. Đông Môn thiếu hiệp đây đang muốn tìm một vị đạo sĩ già, có pháp hiệu là Tùy Vân đạo trưởng. Mong bá bá huy động anh em Cái bang tìm giúp cho.
Độc Cước Cái nghiêm mặt hỏi Đông Môn Thù :
– Các hạ tìm lão mũi trâu kia với mục đích gì, vì ân hay oán? Lão phu biết nơi ẩn cư của Tùy Vân đạo trưởng, nhưng chẳng thể chỉ bừa được.
Đông Môn Thù mừng rỡ :
– Thế là đạo trưởng vẫn còn sống, thật là may mắn. Ông ấy chính là bằng hữu của tiên phụ, tại hạ tìm đến vấn an và hỏi thăm một số việc.
Độc Cước Cái nhận ra nét hân hoan rất thành thực trên mặt Đông Môn Thù, ông yên tâm thổ lộ :
– Đạo trưởng hiện ẩn cư trong tòa Toàn Chân đạo xá trên ngọn núi nhỏ phía bắc Tây Hồ Hàng Châu.
Tiểu Phàm giật mình :
– Thì ra là lão đạo sĩ hiền hòa ít nói ấy đấy ư? Tiểu nữ có gặp vài lần nhưng không biết tên.
Đông Môn Thù vui mừng khôn xiết, cung kính vái dài :
– Tại hạ xin cảm tạ trưởng lão đã chỉ giáo.
Gã quay sang bảo Tiểu Phàm :
– Tại hạ nghe lòng nóng như lửa đốt, phải đi ngay đến đó. Cảm ơn cô nương đã tương trợ.
Tiểu Phàm mở bọc hành lý lấy ra tờ ngân phiếu ngàn lượng bạc, cười bảo :
– Thiếu hiệp hãy nhận lấy số bạc này, coi như tiểu muội trả công bảo vệ dọc đường.
Đông Môn Thù sững người, lắc đầu từ tạ :
– Gia mẫu có dạy vô công bất thụ lộc. Dọc đường nếu thiếu tiền, tại hạ có thể đem sức mình ra làm mướn đổi cơm ăn cũng được.
Tiểu Phàm biện bạch :
– Thiếu hiệp từng nhắc đến mối gia cừu sâu nặng. Sau khi gặp Tùy Vân đạo trưởng, biết được kẻ thù là ai, nếu phải bận tâm kiếm tiền thì thời gian đâu mà báo phục? Tiểu muội thọ ân cứu tử, dẫu ngàn vàng cũng không báo đáp được, huống hồ gì chút bạc mọn này? Mong thiếu hiệp nhận để tiểu muội được yên tâm.
Đông Môn Thù thấy nàng quá chí tình nên đành nhận lấy. Gã vòng tay chào mọi người rồi đi ngay.
Độc Cước Cái nghiêm giọng :
– Gã này tuy xuất thân từ nơi thôn dã nhưng cốt cách phi phàm, ẩn tàng quý tướng, sau này nhất định sẽ thành bậc anh hùng cái thế.
Phân đà chủ Nam Bình nói :
– Đông Môn Thù có trái tim khá sắt thép. Gã từ giã một giai nhân tuyệt thế mà chẳng hề lưu luyến, thật đáng khâm phục! Còn Dư cô nương thì sao? Chẳng lẽ đôi mắt xanh không để ý đến chàng trai xuất chúng ấy?
Tiểu Phàm bẽn lẽn đáp :
– Tiếc là tiểu nữ đã trót trao duyên cho một người khác. Tài trí và nhân phẩm của chàng còn hơn cả Đông Môn Thù.
Độc Cước Cái nhịp chân gõ xuống bàn hỏi :
– Phải chăng đấy là người đã cứu hiền diệt nữ khỏi tay Hồng Bào Tôn Giả?
– Thưa phải! Chàng cũng chính là người mà tiểu nữ đang tìm kiếm.
Nho Y Cái vỗ đùi cười ha hả :
– Nếu vậy thì Dư cô nương cứ nói rõ tính danh người ấy ra, việc truy tìm sẽ dễ dàng hơn. Thành này có hơn sáu ngàn nhà, không có manh mối thì khó mà tìm ra.
– Chàng tên gọi Tây Môn Sĩ Mệnh.
Nho Y Cái nhíu mày :
– Trong thành Nam Bình không có ai mang họ Tây Môn. Chỉ mình Huyện lệnh phu nhân Lâm Mỹ Phụng có bào muội lấy chồng là Hình bộ Thượng thư Tây Môn Thường. Có lẽ Sĩ Mệnh là thân thích của cố Thượng thư, đến đây thăm Lâm phu nhân.
Lão quay sang bảo tên đệ tử ba túi đang đứng hầu trà :
– Ngươi hãy đến ngay cửa tư dinh Hà huyện lệnh, hỏi anh em bổn bang xem có thấy người nào mang những đặc điểm như Dư cô nương đã mô tả hay không?
Gã hóa tử vòng tay nhận lệnh, rảo bước đi ngay. Nửa canh giờ sau gã trở lại, hổn hển báo cáo :
– Bẩm sư phụ, hai hôm trước quả đúng có một người như vậy đứng ngắm hoa trên lan can lầu.
Tiểu Phàm hoan hỉ cáo từ hai lão hóa tử, đi ngay đến tư dinh Hà huyện lệnh.
Khi đến nơi nàng lại rụt rè, hổ thẹn, chẳng dám vào. May thay, có một tỳ nữ mang chổi ra quét lá trên sân. Thấy Tiểu Phàm lấp ló, ả chạy ra hỏi :
– Dường như tiểu thư muốn hỏi thăm ai thì phải?
Tiểu Phàm mừng rỡ nói ngay :
– Ta đến đây để tìm Tây Môn công tử.
Tiểu tỳ vui vẻ nói :
– Tiểu thư vào ngay đi, phu nhân mong mỏi tiểu thư đã mấy ngày nay.
Tiểu Phàm ngơ ngác, tự hỏi vì sao Lâm đại nương biết nàng đến mà chờ? Nhưng dẫu sao thì nàng cũng phải gặp Sĩ Mệnh cái đã, nàng bấm bụng đi theo tiểu tỳ kia.
Vào đến khách sảnh, tiểu tỳ mời nàng ngồi rồi chạy vào trong báo cáo.
Lát sau, Huyện lệnh phu nhân Lâm Mỹ Phụng ra đến. Bà đã hơn lục tuần mà gương mặt còn phảng phất những nét kiều diễm thuở xưa. Đại nương hớn hở nói :
– Ta nghe Sĩ Mệnh bảo rằng ngươi rất xinh đẹp, không ngờ lại kiều diễm ngoài sức tưởng tượng như vậy. Chẳng hay phụ thân ngươi có được an khang hay không?
Tiểu Phàm ngơ ngác như người từ trên trời rơi xuống, thuận miệng đáp :
– Cảm ơn đại di, gia phụ vẫn bình yên!
Lâm đại nương kéo nàng ngồi xuống cạnh mình, bà vuốt tóc nàng rồi than thở :
– Ta vẫn thương thầm cho duyên phận ngươi. Nào ngờ Sĩ Mệnh lại còn sống nên hôn ước xưa mới thành tựu. Nay song thân Sĩ Mệnh đã thất lộc, đại di sẽ đứng ra cưới hỏi cho y. Hà di trượng đã xem lịch, thấy tháng hai sang năm được ngày đại hỷ. Lúc ấy, ta sẽ mang sính lễ đến Động Đình hồ gặp Trình Thiên Cường.
Dư Tiểu Phàm như bị chùy sắt nện vào đầu. Nàng hiểu rằng Sĩ Mệnh và Động Đình Long Nữ Trình Bội Linh đã có hôn ước từ thuở ấu thơ. Nãy giờ, Lâm đại nương vẫn tưởng nàng là Bội Linh.
Tây Hồ Tiên Nữ nghe lòng tan nát, đôi hàng châu lã chã tuôn trào. Nàng định nói ra sự thực rồi bỏ về Hàng Châu, thề suốt đời không nhìn mặt Sĩ Mệnh nữa.
Bỗng từ ngoài cửa có năm người bước vào, đáng chú ý nhất là một nữ lang tuổi độ hai mươi. Nàng ta xinh đẹp phi thường khiến Tiểu Phàm đoán ra ngay đấy là Động Đình Long Nữ, tình địch của mình.
Bội Linh nhận ra ngay Lâm đại nương vì dung mạo bà rất giống mẫu thân nàng. Long nữ xúc động chạy đến nghiêng mình ra mắt :
– Tiểu diệt nữ Trình Bội Linh xin bái kiến đại di.
Lâm đại nương sững sờ, chẳng biết ai mới là cháu gái của mình. Tiểu Phàm tủi hổ đứng lên vái tạ :
– Tiểu nữ là Dư Tiểu Phàm chứ chẳng phải là Bội Linh. Vì đại nương không cho nói nên chưa kịp xưng danh, thực lòng chẳng dám mạo nhận Trình cô nương. Xin đại nương cho tiểu nữ gặp Tây Môn đại ca lần cuối để nói lời vĩnh biệt.
Lâm đại nương bật cười ha hả :
– Ta đúng là đáng trách, nói huyên thuyên khiến ngươi chẳng có dịp biện minh. Té ra đây chính là nàng dâu thứ hai của dòng họ Tây Môn đấy ư? Ta có nghe Sĩ Mệnh nói rằng đã đính hôn với ngươi, nhưng đâu ngờ rằng ngươi lại đến đấy trước cả Trình nha đầu?
Tiểu Phàm nghe bà công nhận mình là cháu dâu, bao nhiêu phiền muộn tan biến mất, lòng ghen hờn với Bội Linh cũng vậy. Nàng sung sướng nhưng cũng thẹn thùng đến mức chẳng biết nói sao, cúi đầu vân vê tà áo.
Động Đình Long Nữ cũng đã nhận ra Tiểu Phàm. Nàng bước đến nắm tay Tây Hồ Tiên Nữ, dịu dàng nói :
– Duyên trời đã định cho chúng ta thờ chung một chồng, chẳng lẽ Phàm muội không vui lòng hay sao?
Tiểu Phàm không ngờ Bội Linh lại rộng lượng như vậy. Nàng xúc động ngước lên gọi :
– Đại thư!
Hai nữ nhân ôm nhau để kết tình chị em chung thuyền. Lâm đại nương cười bảo :
– Mọi người hãy vào sau tắm rửa, ta sẽ bảo gia nhân dọn tiệc mừng hai cô cháu dâu.
* * * * *
Trở lại với Đông Môn Thù, gã vừa đi vừa hỏi đường, thúc ngựa phi về hướng Hàng Châu. Năm ngày sau, gã đến bờ Nam sông Dũng giang, thuộc địa phận phủ Chiết Giang.
Đò ngang còn ở bên kia nên gã dừng cương đứng đợi, dưới hàng liễu cạnh sông. Đã cuối giờ thìn mà vầng dương vẫn gay gắt trên đầu. Chắc do bờ bắc vắng khách nên đò chẳng chịu sang.
Đông Môn Thù chờ cả nửa canh giờ mà vẫn chưa thấy bóng đò ngang, lòng rủa thầm vận mình xui xẻo. Hôm kia gã cũng đã phải chờ đò ở bến Âu Giang đến gần một canh giờ.
Bỗng từ phía xa có đoán người ngựa phóng như bay, tổng cộng có đến hơn ba mươi kỵ sĩ.
Đoàn nhân mã đến nơi, lập tức vây chặt Đông Môn Thù lại. Đi đầu là năm lão già áo vàng tuổi độ thất tuần, mặt mũi cực kỳ hung ác. Ba mươi hán tử theo sau mặc áo đen, dung mạo lầm lì, lạnh giá như sương thu.
Lão già áo vàng ở giữa cất tiếng hỏi :
– Phải chăng ngươi là Đông Môn Thù?
– Phải!
– Vậy có đúng là chính ngươi đã sát hại Hấp Tinh Nhân Ma hay không?
Đông Môn Thù cười nhạt :
– Có lẽ vì ta không biết lão già áo vàng ấy là ai.
Lão đầu hói bên trái giận dữ quát vang :
– Trước mặt Long môn ngũ đại lão gia mà ngươi dám ỡm ờ ư? Con mẹ ngươi, mấy ngày nay bọn lão gia mất ăn mất ngủ, canh giữ bến đò này để chờ ngươi đấy.
Đông Môn Thù sa sầm nét mặt, mắt gã lấp loáng hào quang trông hung dữ như loài thú. Lão đầu hói kia đã phạm vào đại kỵ của Đông Môn Thù. Gã có thể bỏ qua rất nhiều lời nhục mạ, chỉ trừ khi người nào đó xúc phạm đến cha mẹ của gã.
Đông Môn Thù mồ côi cha từ trong bụng mẹ. Nhưng qua lời kể lại của mẫu thân, gã rất tự hào về người cha khuất mặt của mình. Còn mẹ gã thì lại càng bội phần cao quý, bà đã hy sinh cả tuổi thanh xuân để nuôi dạy gã. Chính vì vậy, lão đầu hói vừa dút lời thì thanh trường kiếm của Đông Môn Thù đã ập đến. Gã xuất chiêu bằng cơn phẫn nộ ngút trời nên lão kia chẳng thể sống nổi. Thân hình lão bị chẻ làm hai, từ đỉnh đầu xuống đến hậu môn. Dư lực của đường kiếm còn chặt đứt cả xương sống con tuấn mã.
Bốn lão áo vàng còn lại và ba mươi tên hắc y vội rút kiếm xông vào.
Đông Môn Thù không hề sợ hãi, ôm kiếm lao thẳng đến. Gã như mãnh hổ chụp lấy con mồi mà chẳng quản đến thân mình. Chiêu thứ hai đã lấy mạng ngay một gã hắc y. Có nghĩa là mỗi lần Đông Môn Thù vung kiếm là có kẻ lìa đời.
Nhưng bốn lão áo vàng đã không để cho đối phương tung hoành thêm nữa. Những đạo chưởng kình hùng hậu đã đan lưới quanh thân Đông Môn Thù, khiến trường kiếm trong tay gã run lên bần bật.
Bản lãnh mỗi người trong Long Môn ngũ yêu đều kém Hấp Tinh Nhân Ma một bậc. Nhưng khi năm lão liên thủ thì ngay cả Phượng Hoàng đài chủ cũng không địch nổi. Cũng may mà Đông Môn Thù đã sớm giết được một lão yêu nên gã còn có thể duy trì được khá lâu.
Liên hoàn chưởng của Long Môn ngũ yêu lẫy lừng võ lâm đã mấy chục năm nay. Những đạo chưởng kình vây chặt Đông Môn Thù khiến gã phải rất vất vả.
Với thân pháp linh hoạt như loài vượn, gã đảo lộn, xoay chuyển trong lưới chưởng, cố tìm cách phản công. Thanh trường kiếm rung động liên tục phát ra tiếng ngân dài.
Đông Môn Thù động sát khí, bốc lên không trung rồi lao xuống lão râu đen. Gã đã dùng đến phép Ngự kiếm, đâm thẳng vào màn chưởng ảnh của đối phương.
Long Môn nhị yêu rú lên thảm thiết, biến thành hai đoạn vì một đường kiếm quét ngang hông. Nhưng Đông Môn Thù cũng trúng một chưởng vào lưng. Gã hít một hơi chân khí, đè nén luồng máu đang chực trào ra và lao vào lão béo lùn.
Lối đánh liều mạng của Đông Môn Thù đã làm đối phương khiếp sợ, hợp chưởng đón chiêu.
Đông Môn Thù đang lướt đến bỗng lật ngửa ra, như người bị trượt chân. Gã dán mình sát mặt đất tránh chưởng phong và tiếp tục trôi đi. Khi còn cách lão béo lùn gần nửa trượng, gã chồm dậy, ôm kiếm lăn tròn.
Quái chiêu này đã khiến đối thủ bất ngờ. Hai chân lão yêu bị tiện đứt ngang gối và bụng rách toang. Tứ Yêu gào lên ghê rợn rồi đi theo Nhị Yêu.
Nhưng bốn đạo chưởng kình của Nhất Yêu và Tam Yêu đã giáng vào người Đông Môn Thù. Gã lăn tròn tránh được song chưởng của Tam Yêu nhưng lại trúng đòn của Nhất Yêu. Thân hình Đông Môn Thù văng xa gần trượng, máu miệng phun thành vòi. Thế mà gã vẫn gượng đứng lên, ánh mắt hung dữ như mãnh hổ cùng đường.
Đông Môn Thù điểm nhanh lên tâm huyệt đạo trước ngực rồi lại xông lên, thân hình thẳng băng như mũi tên bay về hướng Nhất Yêu. Trường kiếm chập chờn, hóa thành trăm thanh kiếm và rít lên như tiếng oan hồn kêu khóc.
Nhất Yêu thấy như trước mặt mình là một rừng kiếm thép. Lão kinh hoàng cử chưởng giáng mạnh vào đấy. Nhưng chỉ như trận thu phong thổi qua đám trúc dẻo dai. Cơn bão thép vẫn ập đến và khoét lỗ chi chít trên người của lão ma.
Song chưởng của Tam Yêu tuy đánh trúng vào sườn trái Đông Môn Thù nhưng cũng không cứu được Nhất Yêu.
Đông Môn Thù giết xong lão hói đầu cũng rơi xuống như chiếc lá vàng. Gã không còn đứng lên được nữa mà chống kiếm quỳ một chân, nhìn Tam Yêu bằng cặp mắt căm hờn.
Bọn hắc y chỉ còn lại gần hai mươi tên, chúng chậm rãi bước đến.
Tam ma bật cười kinh khiếp :
– Tiểu tử giỏi lắm! Một mình ngươi mà giết được bốn người của Long Môn ngũ yêu thì có thể tự hào rồi đấy. Nhưng lão phu sẽ cắt từng miếng thịt của ngươi để báo thù cho huynh đệ.
Lão quát bọn thủ hạ :
– Hãy băm xác gã ra cho ta.
Bản thân lão cũng cử song chưởng giáng xuống.
Đông Môn Thù nhắm mắt tưởng nhớ đến mẫu thân lần cuối trong đời.
Nhưng sự đời vẫn không như dự đoán. Hai bóng người đã lướt đến như ánh sao băng. Bóng trắng vung chưởng đón chiêu còn bóng xanh đến đứng cạnh Đông Môn Thù, múa tít loan đao đỡ những nhát kiếm của bọn hắc y.
Đông Môn Thù nghe tiếng chân người hạ xuống cạnh mình liền mở mắt ra. Gã thấy rõ bóng trắng kia đã xuyên qua màn chưởng phong, vỗ vào ngực Tam Yêu. Lão ma văng ngược ra sau hơn trượng, xương cốt vỡ vụn, xuống suối vàng đoàn tụ cùng tổ tiên.
Người áo trắng hạ thủ hạ xong Tam Yêu liền rút kiếm lao vào bọn hắc y. Chiêu kiếm tỏa rộng như nan quạt, khí thế tựa chẻ tre, bốn gã hắc y bỏ mạng đương trường. Người kia không hề dừng bước, tiến như vũ bão, trường kiếm vun vút như chiếc chong chóng thép chặt bay những phần cơ thể của bọn kiếm thủ xấu số. ậy mà phong thái người ấy vẫn ung dung, tiêu sái, xuất chiêu như thuận tay mà đánh. Đông Môn Thù hiểu rằng chàng thư sinh kia đã nắm được tinh túy của kiếm đạo. Gã tự lượng mình không thể bằng được.
Người áo xanh thì ngược lại. Gã như con ác thú gầm gừ, vung loan đao đánh toàn những chiêu hiểm ác, quỷ dị. Tay tả gã thỉnh thoảng rải ra những nắm phấn trắng cực độc chỉ cần dính vào da cũng đủ khiến bọn hắc y đau đớn gào lên và mất sức kháng cự.
Chỉ hơn nửa khắc thời gian, chẳng còn một tên áo đen nào sống sót. Và Đông Môn Thù cũng gục xuống bất tỉnh. Hai người đến cứu gã chính là Sĩ Mệnh và Ma Ảnh Tử Hạ Sầu Miêu. Đông Môn Thù đi trước họ một ngày đương nhưng cước trình chậm hơn. Sĩ Mệnh nóng lòng cứu đại sư huynh nên kiêm trình ngày đêm, chỉ dừng để thay ngựa. Vì vậy hai người đã bắt kịp Đông Môn Thù ở chốn này.
Sĩ Mệnh thấy chàng thanh niên kia gục xuống, vội chạy lại xem thử. Chàng cởi áo gã thì thấy lưng có hai dấu chưởng ấn và xương sườn hông tả đã gãy ba chiếc.
Ma Ảnh Tử thở dài :
– Gã này một mình mà giết được bốn lão Long Môn thì quả là đáng khâm phục!
Sĩ Mệnh nhìn khuôn mặt rám nắng kia đang tái dần vì mất máu, lòng bỗng dâng lên cảm giác thân thiết lạ lùng. Chàng điểm liền mười tám huyệt đạo trước sau, truyền cho gã ít chân khí rồi hỏi Hạ Sầu Miêu :
– Các hạ có quen ai ở vùng này hay không? Chàng trai này cần nơi yên tĩnh để dưỡng thương.
Ma Ảnh Tử gật đầu :
– Cách đây chừng bảy dặm về hướng Đông có nhà của gã Bách Giang Long Hàn Chí Vy. Gã là thủ lĩnh của anh em thủy tặc Chiết giang. Năm xưa thuộc hạ đã từng cứu mạng hắn một lần nên có thể tin tưởng được.
Sĩ Mệnh gật đầu, nhẹ nhàng bồng nạn nhân lên lưng rồi bảo Ma Ảnh Tử dắt ngựa đi trước.
Con tuấn mã của Đông Môn Thù tự động chạy theo. Nó vốn là ngựa của Đường Hải Lam Tổng quản Dư gia trang. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, Đông Môn Thù đã chinh phục được ngựa quý. Gã làm bạn với muông thú từ nhỏ nên hiểu rõ tính tình của từng loài vật và biết cách tạo sự cảm thông, thân thiện.
Lúc cuộc chiến xảy ra ở bến đò, cũng có nhiều người chứng kiến. Nhưng với hơn ba mươi xác chết kia chẳng ai dại gì mở miệng để phải rắc rối với nha môn. Cuộc đời loạn lạc, nhiễu nhương đã dạy cho họ cách phủ nhận tất cả. Họ sẽ bảo rằng mình không biết, không nghe, không thấy.
Ma Ảnh Tử đi trước dẫn đường, chỉ nửa khắc sau đã đến nơi. Đó là một tòa gia trang nằm dọc bờ sông Dũng giang. Chung quanh trồng rất nhiều đào liễu, như để che mắt người ngoài.
Đi hết đoạn đường dài mười trượng, xuyên qua rừng cây mới đến cổng trang. Ma Ảnh Tử nghiêm giọng bảo hai hán tử gác cửa :
– Các ngươi vào báo với Hàn lão đại rằng có cố nhân ở Kim Hoa đến thăm.
Ánh mắt lạnh lẽo của gã đã khiến một tên run bắn, chạy nhanh vào trong.
Lát sau, một hán tử tuổi độ tứ tuần, y phục bảnh bao, râu mép tỉa khéo ra đến nơi. Hắn ta hớn hở vái chào :
– Không ngờ ân huynh lại giá lâm, tiểu đệ bặt tin người hai năm nay, lòng vẫn thầm nhung nhớ.
Ma Ảnh Tử xua tay :
– Bất tất nhiều lời, ta đang cần một chỗ để chữa trị thương thế cho bằng hữu.
Hạ Sầu Miêu là người có vai vế khá lớn trong Hắc đạo, lại là người ơn nên họ Hàn chẳng dám giận. Gã mau mắn quay lưng dẫn đường.
Tòa gia trang này là sào huyệt của anh em thủy đạo, thường xuyên có người hội họp nên phòng ốc rất nhiều.
Hàn Chí Vy đưa bọn Sĩ Mệnh vào một phòng rộng rãi, thoáng mát. Chàng đặt nạn nhân xuống nệm giường, cởi áo gã ra rồi lật sấp xuống, dồn Hỗn Nguyên khí công ra bàn tay xoa đều trên hai dấu ấn chưởng. Khi thấy vết tím bầm tan đi, chàng bảo Ma Ảnh Tử đỡ gã ngồi lên.
Sĩ Mệnh ngồi xếp bằng sau lưng, áp hữu thủ vào mệnh môn, cố dùng nội lực đả thương kinh mạch, phục hồi sự luân chuyển của luồng chân khí trong người Đông Môn Thù.
Hơn nửa canh giờ sau, nạn nhân hộc ra một ngụm máu bầm và mở mắt.
Sĩ Mệnh bước xuống giường, bảo y :
– Kinh mạch đã thông suốt, các hạ hãy tọa công để vết thương sớm lành.
Đông Môn Thù thấy y phục của chàng thư sinh ướt đẫm mồ hôi, hiểu rằng người ấy đã tổn hao rất nhiều sức lực mới cứu được mình. Trong đời gã, trừ từ mẫu và ân sư, chưa có ai đối xử tốt với gã cả. Thế mà con người có gương mặt thuần phác, trung hậu kia lại cố công cứu gã.
Đông Môn Thù không quen biểu lộ tình cảm của mình, gã chỉ gật đầu rồi nhắm mắt hành công.
Đến đầu canh một thì khôi phục được tám thành công lực. Chỉ có ba rẻ xương sườn bị gãy là còn đau nhức mà thôi.
Ma Ảnh Tử lấy “Tục Cốt Giao” thoa vào rồi băng chặt lại. Sĩ Mệnh cũng vừa tọa công xong. Chàng mỉm cười bảo :
– Các hạ quả là có tấm thân sắt thép, trúng liền ba chưởng chí mạng mà tâm mạch vẫn nguyên vẹn. Nếu không ta cũng bó tay thôi.
Nụ cười đôn hậu lai như thấm vào tận đáy lòng Đông Môn Thù. Bất giác, ngoài lòng biết ơn, gã còn nhận ra một tình cảm khác nữa. Gã vòng tay cung kính nói :
– Tiểu đệ là Đông Môn Thù, quê ở Quảng Tây. Nguyện ghi lòng tạc dạ ơn tái tạo của đại huynh. Xin người cho tiểu đệ biết tính danh?
Sĩ Mệnh cười đáp :
– Cứu khốn phò nguy là bổn phận của người võ sĩ. Chút công lao kia nào có đáng kể để thiếu hiệp phải bận tâm? Tại hạ là người học đạo Tam Thanh, không coi trọng chữ danh, rất hổ thẹn với chuyện ơn nghĩa. Mong thiếu hiệp hãy coi như chưa hề gặp nhau.
Đông Môn Thù làm sao hiểu được ý nghĩa cao siêu ấy. Gã ngẩn người suy nghĩ, lát sau quỳ sụp xuống :
– Gia mẫu từng dạy tiểu đệ, rằng bậc trượng phu ân oán phải phân minh. Nay đại huynh không cho biết tên thì tiểu đệ thà chết chứ không đứng dậy.
Sĩ Mệnh biết gã là người mộc mạc nhưng kiên quyết, chàng đành chịu thua :
– Thiếu hiệp đứng lên đi, tại hạ là Sĩ Mệnh.
Trong tiếng Trung Hoa, chữ “mệnh” và chữ “minh” phát âm giống nhau nên Đông Môn Thù tưởng chàng họ Sĩ tên Minh. Gã mừng rỡ lẩm nhẩm rồi đứng lên. Vừa lúc Bách Giang Long vào mời ba người ra dùng cơm. Sĩ Mệnh từ tạ ngay :
– Tại hạ có việc khẩn cấp phải lên đường ngay. Nếu Hàn các hạ có lòng thương thì xin hãy chiếu cố giùm Đông Môn thiếu hiệp đây.
Hàn Chí Vy biết chàng thư sinh này là chủ nhân của Ma Ảnh Tử nên kính cẩn đáp :
– Hàn mỗ chịu ơn của Hạ ân huynh, dẫu có phải phơi gan trải mật cũng chẳng dám từ nan, huống hồ gì chút việc mọn này.
Ma Ảnh Tử cười bảo :
– Nếu Hàn lão đệ muốn khoản đãi ta thì cứ gói rượu thịt lại, vừa đi vừa ăn cũng không sao.
Họ Hàn gật đầu khen phải, quay gót trở ra.
Sĩ Mệnh hòa nhã dặn dò Đông Môn Thù :
– Vết thương nơi sườn trái chưa lành, thiếu hiệp nên ở lại đây tĩnh dưỡng vài ngày. Thế lực Tam Hoàn bang rất hùng mạnh, chúng sẽ không bỏ qua đâu.
Đông Môn Thù thấy chàng gấp gáp đến nỗi bữa cơm cũng chẳng dám ăn mà lại dám vì mình bỏ phí cả nửa ngày trời. Gã cảm kích vô cùng và nghe mắt cay xè. Gã lặng lẽ gật đầu tuân mệnh lệnh.
Sĩ Mệnh suy nghĩ một lúc, bảo Ma Ảnh Tử :
– Các hạ hãy tặng Đông Môn thiếu hiệp một chiếc mặt nạ để cải trang. Nếu Tam Hoàn bang cho những tay đại ma đầu truy sát thì y khó mà thoát được.
Hạ Sầu Miêu mở bọc hành lý lấy ra một chiếc mặt nạ mỏng như cánh chuồn. Sĩ Mệnh trao cho Đông Môn Thù và phủ dụ :
– Bậc anh hùng ngộ biến phải tùng quyền, có thế mới làm nên sự nghiệp. Thiếu hiệp hãy nhớ câu nhu thắng cương, nhược thắng cường. Bản thân ta cũng phải ẩn mặt, giấu tên mới sống sót đến ngày hôm nay.
Đông Môn Thù thấy chàng quan tâm lo lắng cho mình như huynh trưởng lo cho bào đệ, gã nhìn chàng với ánh mắt cảm kích và lưu luyến.
Mẫu thân gã đã hết lời dặn dò rằng giang hồ còn hung hiểm hơn rừng xanh Miêu Lĩnh, đối với ai cũng phải cảnh giác đề phòng. Thế mà chàng thư sinh này lại quá tốt với gã. Gã buột miệng hỏi :
– Vì sao đại huynh lại hết dạ quan tâm đến tiểu đệ như vậy?
Sĩ Mệnh mỉm cười :
– Ta cũng chẳng biết vì sao vừa gặp thiếu hiệp đã đem lòng thương mến? Có lẽ là do duyên trời.
Bách Giang Long bước vào, hớn hở nói :
– Tiểu đệ đã gói ghém xong thức ăn và rượu quý. Nhị vị có thể lên đường được rồi.
Sĩ Mệnh vòng tay cảm tạ rồi cùng Ma Ảnh Tử lên ngựa rời trang.
Bách Giang Long đã điều đò ngang chờ sẵn để đưa họ sang sông.
* * * * *
Lại thêm bảy ngày đêm nữa trôi qua, thay thêm hai lần ngựa Sĩ Mệnh mới đến được Hàng Châu.
Trưa ngày mười sáu tháng tám, hai người đến ngọn núi nhỏ phía bắc Tây Hồ. Ma Ảnh Tử chỉ cho Sĩ Mệnh xem những vũng máu đen sậm trên mặt cỏ và đất đá. Vùng chân núi đã bị dẫm nát vì vó ngựa, chứng tỏ nhân số Tam Hoàn bang khá đông.
Đường lên núi cũng vuông đầy vết máu, cho đến tận cửa đạo quán. Nhưng Ma Ảnh Tử chăm chú quan sát những vết giầy rồi lẩm bẩm :
– Lạ thực! Dường như có đến hai toán cao thủ khác nhau cùng đến một lượt và chúng đã tử chiến với nhau tại đây.
Sĩ Mệnh nóng ruột xông thẳng vào đạo quán xem xét. Thấy bộ ấm chén bằng hắc thạch nằm lăn lóc dưới nền, Sĩ Mệnh biến sắc nhặt lên rồi bảo :
– Xem ra đại sư huynh đã ở vào cảnh hiểm nghèo, lành ít dữ nhiều. Nếu không, người chẳng bao giờ bỏ lại kỷ vật của tiên sư.
Chàng bỏ bộ ấm chén vào bọc, bước ra ngoài, đảo cặp mắt muộn phiền nhìn xung quanh. Bỗng thấy trên vách gỗ có những vết chém, chàng nhíu mày xem kỹ rồi mỉm cười :
– May quá, đại sư huynh đã thoát rồi!
Ma Ảnh Tử không hiểu :
– Sao thiếu chủ biết?
– Trên bức vách kia có dấu vết của chiêu “Thiên Hạc Quy Sào” báo hiệu rằng người đã đào thoát về Hoàng Sơn. Trước đây, ta có hẹn rằng cuối tháng tám sẽ trở lại thăm. Đại sư huynh sợ ta lo lắng nên trước khi đào tẩu đã để lại ám ký. Người ngoài chẳng thể nào hiểu nổi.
Bỗng một luồng gió đưa đến mùi hôi thối nồng nặc của xác người thối rữa. Ma Ảnh Tử nhăn mặt :
– Chắc là trong đám cây cối kia có đến hàng trăm xác người? Để thuộc hạ đi xem thử.
Gã phi thân về phía cánh rừng phía Tây đạo quán. Hơn khắc sau, gã trở lại, hít liền mấy hơi dưỡng khí trong lành rồi bảo :
– Thiếu chủ, có đến bốn mươi bang chúng Tam Hoàn bang bỏ mạng. Nằm chung với chúng còn có hơn hai mươi xác kiếm thủ áo trắng, không rõ lai lịch. Tuy nhiên, trên gấu áo chúng có thêu một hình tam giác nhỏ, có một trong năm màu trắng, vàng, xanh, đỏ, đen. Nếu không chú ý tất sẽ chẳng nhận ra.
Ma Ảnh Tử là độc hành đất Thiểm Tây, hành sự cực kỳ cẩn trọng và tinh minh nên mới phát hiện ra những dấu hiệu kín đáo này. Sĩ Mệnh suy nghĩ một lúc rồi bảo :
– Năm màu kia ứng với ngũ hành, chẳng lẽ đất Giang Nam lại xuất hiện một bang hội mới?
Ma Ảnh Tử giật mình :
– Chẳng lẽ họ lại liên quan đến Ngũ Hành cung? Thuộc hạ đề nghị đi ngay Hoàng Sơn xem sao?
Sĩ Mệnh lắc đầu :
– Hoàng Sơn cách đây đến sau bảy trăm dặm, ta cho rằng tổ chức thần bí kia phải có căn cứ ở Chiết Giang này. Các hạ cứ thử lần theo dấu chân xem sao? Chàng kính trọng lòng trung liệt của họ đối với cha mình nên xưng hô rất khách sao, dù họ tự nguyện coi chàng là chủ nhân.
Ma Ảnh Tử gật đầu, cùng Sĩ Mệnh xuống núi. Gã nhanh chóng tìm ra hướng đi của đoàn nhân mã thần bí. Được chừng hai dặm, dấu vó ngựa rẽ vào trong rừng còn dấu chân người tiếp tục đi vào thành Hàng Châu. Gã báo việc này cho Sĩ Mệnh, chàng gật gù :
– Như vật số ngựa kia là của Tam Hoàn bang để lại, còn toán cao thủ Ngũ Hành xuất phát từ trong thành. Vì vậy, bọn họ đem ngựa giấu vào cơ sở trong rừng và phân tán trở lại chỗ cũ. Ta đã đoán ra lai lịch của họ rồi.
Ma Ảnh Tử hỏi ngay :
– Thiếu chủ! Chẳng lẽ là Giang Nam Thần Kiếm?
Đến lượt Sĩ Mệnh ngạc nhiên :
– Ta chưa nói sao các hạ đã biết?
– Trong ba năm gần đây, có nhiều cao thủ Hắc đạo đột nhiên biệt tích, trong số đó có cả bằng hữu của thuộc hạ. Một hôm, thuộc hạ tình cờ gặp lại Hán Trung Nhất Hổ Khuất Kiếm Hùng, tại một tửu quán trong thành Hán Khẩu. Gã đã hóa trang nhưng vì đã quá quen nên bị thuộc hạ nhận ra. Gã thú thực rằng mình đã đầu nhập dưới trướng Giang Nam Thần Kiếm và đang được trọng dụng, bổng lộc rất hậu. Họ Khuất còn khuyến dụ tại hạ đi theo. Nhưng Miêu này quen thói vẫy vùng bốn biển và nguyện hiến mình cho dòng họ Tây Môn nên chỉ cười xòa. Nay bang hội thần bí kia lại ở ngay trong thành Hàng Châu, khiến thuộc hạ nhớ đến Giang Nam Thần Kiếm.
Sĩ Mệnh cười bảo :
– Mấy tháng trước ta tình cờ cứu được Tây Hồ Tiên Nữ Dư Tiểu Phàm khỏi tay Hồng Bào Tôn Giả. Cổ Hạo đuổi theo đến tận Dư gia trang. Nhờ vậy ta mới được thấy hai lão ma đầu Thanh Vụ song sát và thuật Ngự kiếm của Dư Tâm Nhiên.
Hạ Sầu Miêu gãi đầu :
– Thiếu chủ cùng với Dư cô nương luyến ái, sau này tất sẽ thành rể quý của họ Dư. Với thế lực của Giang Nam Thần Kiếm, may ra chống lại được Tam Hoàn bang.
Sĩ Mệnh lắc đầu :
– Ta không muốn dựa vào ai cả. Chỉ mong sao đủ bản lãnh khiêu chiến với Tam Hoàn ẩn sĩ, giết lão để báo gia cừu. Đối với Miêu Nhãn Tú Sĩ và U Linh Quỷ Kiếm cũng vậy. Họ có hậu thuẫn của Thiếu Lâm và Võ Đang, chẳng lẽ lại tiêu diệt luôn cả hai phái ấy? Lúc ấy máu xương sẽ chất chồng, kẻ chết oan sẽ nhiều như lá mùa thu.
Ma Ảnh Tử lộ vẻ ưu tư :
– Năm xưa, Tam Hoàn ẩn sĩ dùng thế lực của Lưu Cẩn, đưa hai lão quỷ kia vào tiềm phục trong hai phái lớn nhất thiên hạ chính là để chuẩn bị cho cục diện hôm nay. Chỉ sợ Miêu Nhãn Tú Sĩ và U Linh Quỷ Kiếm dùng thủ đoạn gian xảo, chiếm đoạt quyền Chưởng môn rồi đưa Thiếu Lâm, Võ Đang liên thủ với Tam Hoàn bang. Lúc ấy cả võ lâm sẽ lọt vào tay ẩn sĩ và mối thù của thiếu chủ sẽ khó mà rửa được.
Sĩ Mệnh cười buồn :
– Ta nghĩ đến điều ấy và cho rằng cả Huyết Y môn ở Hồ Nam, cùng phái Toàn Chân ở Hà Bắc cũng sẽ là vây cánh của Tam Hoàn bang.
Ma Ảnh Tử lo lắng :
– Vậy thiếu chủ tính sao?
Sĩ Mệnh điềm đạm bảo :
– Đạo gia xem thường sinh tử, coi nhẹ ân oán, gia cừu có báo hay không cũng chẳng sao. Nhưng ta chưa phải là kẻ đắc đạo nên sẽ tận lực trả thù. Nếu chẳng may ta thất bại trước thế lực hùng mạnh của Tam Hoàn bang, chư vị cũng hãy xem oán cừu đã kết liễu. Hai mươi năm qua, họ Tây Môn đã mắc nợ tứ vị quá nhiều rồi.
Hạ Sầu Miêu không phản bác lời chàng nhưng tự nghĩ sẽ xem đem cả cuộc đời ra ám ảnh, rình rập những kẻ đã nhúng tay vào máu của họ Tây Môn. Gã nói lảng sang chuyện khác :
– Giờ đã rõ lai lịch của tổ chức Ngũ Hành, thiếu chủ định thế nào?
Sĩ Mệnh cười đáp :
– Chúng ta sẽ đi Hoàng Sơn gặp đại sư huynh rồi thử vào Ngũ Hành cung xem sao.
Hai người lên ngựa đi về hướng Tây. Ba ngày sau, họ vượt ranh giới vào địa phận phủ An Khánh, dừng chân ở trấn Phúc Ninh để dùng cơm. Nơi này chỉ cách rặng Hoàng Sơn chừng hai trăm dặm.
Phúc Ninh là một trấn lớn, dân cư đông đúc và phồn vinh. Mùi mực thơm bay thoang thoảng trong không khí vì đa số dân trong trấn sống bằng nghề sản xuất mực viết.
Cũng như hàng vạn khu dân cư khác, trấn này có con đường lát đá ở giữa và hai bên đường là lẩu quán, tiểu hiệu.
Ma Ảnh Tử Hạ Sầu Miêu đã từng qua lại vùng này nên rất quen thuộc. Gã dừng cương trước một tửu quán rộng rãi và mát mẻ. Bọn tiểu nhị dường như nhận ra gã, cười toe toét đón chào :
– Đã hai năm Hạ đại gia không ghé chơi, bổn chủ nhân vẫn thường nhắc nhở.
Ma Ảnh Tử gật đầu đáp lễ, trao cương ngựa cho chúng rồi đưa tay mời Sĩ Mệnh đi trước.
Chủ nhân tửu quán này là một tay Hắc đạo hoàn lương, trước đây là thủ hạ của Hạ Sầu Miêu. Mỗi lần có dịp đến An Khánh là Hạ Sầu Miêu đều ghé nơi này thăm nghĩa đệ.
Sĩ Mệnh vừa bước qua ngạch cửa thì người ngồi bàn ngoài cùng bên mé tả chụp lấy chai nước tương tạt vào áo chàng. Sĩ Mệnh thấy rõ hành động của đối phương nhưng vẫn không hề phản ứng.
Ma Ảnh Tử rất tôn kính chàng nên lửa giận bốc lên phủ sương trên mặt. Nhưng gã là người cẩn trọng nên không hề vọng động, chờ đợi thái độ của chủ nhân.
Kẻ vừa phạm lỗi chính là một tiểu cô nương tuổi độ mười ba. Nàng ta bật cười khúc khích, đảo cặp mắt tinh quái rồi giả lả :
– Ôi chao, tiểu muội quả là vô ý, mong công tử tha lỗi.
Sĩ Mệnh cười hiền hòa :
– Không sao! Bộ y phục này cũng đã lỡ dơ rồi. Chỉ mong lần sau cô nương cẩn thận hơn.
Chàng thản nhiên đi tiếp vào trong. Hạ Sầu Miêu thầm thán phục định lực và lòng độ lượng của thiếu chủ. Con bé mặt rỗ xấu xí này rõ ràng là cố ý chơi trò tai quái, chỉ nhìn ánh mắt đắc ý kia là đã rõ.
Chủ nhân tửu quán, kiêm chưởng quỹ, nhận ra Ma Ảnh Tử, vội chạy đến đón chào. Gã cười ha hả :
– Tiểu đệ đang nhớ nhung Hạ đại ca đến chết đi được, xin mời lên lầu dự tiệc tẩy trần.
Ma Ảnh Tử hạ giọng :
– Trước tiên ngươi hãy đưa thiếu chủ của ta vào trong thay áo.
Cửu Hoàn Đao Giang Tiểu Quân vốn coi Hạ Sầu Miêu như thần tượng, một trong hảo hán đỉnh thiên địa, ngạo thị giang hồ. Nay thấy Ma Ảnh Tử gọi chàng thư sinh văn nhược này là chủ nhân, gã vô cùng kinh ngạc, vội kính cẩn mời Sĩ Mệnh theo mình.
Hơn nửa khắc sau, ba người chễm chệ trên tầng hai thưởng thức chén rượu ngon và sơn hào hải vị. Dọc đường, Sĩ Mệnh vì cấp bách nên chẳng thể ghé quán dùng cơm chay. Chàng ăn bất cứ thứ gì Ma Ảnh Tử mua được. Do vậy, giờ đây chàng thản nhiên ăn thịt cá, không phàn nàn gì cả.
Ma Ảnh Tử áy náy nói :
– Nếu thiếu chủ muốn dùng món chay thuộc hạ sẽ bảo họ Giang cho bưng lên.
Chàng cười đáp :
– Lão Tử và Trang Tử cũng đâu có phân biệt chay mặn? Người đời sau trí tuệ yếu kém, lòng dục lại cường thịnh nên mới trai tịnh để quả dục. Nay ta có ăn vài bữa cũng chẳng sao.
Cửu Hoàn Đao rụt rè hỏi họ Hạ :
– Đại ca! Công tử đây danh tính là gì?
Ma Ảnh Tử cười đáp :
– Ngươi cứ biết đây là Vô danh thư sinh là được rồi.
Sĩ Mệnh thầm khen Hạ Sầu Miêu là người tinh tế, chàng rất thích danh hiệu kia.
Bỗng có người chạy thình thịch lên thang lầu, tiếng chân dậm thật mạnh như muốn quấy nhiễu lỗ tai thực khách, đó chính là cô bé xấu xí, đã tạt nước tương vào Sĩ Mệnh.
Giang Tiểu Quân đứng lên, cau mày hỏi :
– Sao cô nương đang ngồi dưới lại lên đây làm gì?
Cô bé chống nạnh tròn mắt, nói :
– Bổn cô nương thấy nóng nực nên muốn lên đây cho mát. Ta có nhiều tiền, ngồi đâu mà chẳng được?
Dứt lời, nàng ngoe nguẩy bước đến ngồi vào một bàn trống rồi quát tiểu nhị dọn cơm canh. Bàn của nàng ta gần với tám bàn ở mé hữu. Đám thực khách nhìn nàng với vẻ hiếu kỳ.
Lát sau, lại thêm một người nữa bước lên. Lão lẳng lặng chọn một bàn và ngồi xuống. Đó là một lão nhân vạm vỡ, lưng gù, đầu hói bóng không còn một sợi tóc. Chiếc trường bào màu hồng cũ kỹ nhưng không hề có mụn vá nào. Lão nhân cũng gọi rượu thịt và ngồi nhâm nhi.
Ma Ảnh Tử thì thầm :
– Lúc này lão già này cũng ở tầng dưới, ngồi riêng một bàn gần con nha đầu tai quái kia.
Ba người tiếp tục ăn uống, chờ xem sự thể.
Quả nhiên, chỉ lát sau, chàng công tử anh tuấn, mặc áo xanh diêm dúa, ngồi gần bàn cô bé mặt rỗ, bỗng đứng lên chỉ mặt cô ta mà mắng :
– Tiếu nha đầu yêu quái kia, sao ngươi dám đổ nước canh vào lưng bổn thiếu gia?
Gã xô ghế bước đến tát vào mặt cô bé. Nàng ta rời khỏi ghế, chui qua gầm bàn, chạy đến bên Sĩ Mệnh, ôm vai chàng khẩn cầu :
– Tiểu muội sợ lắm, mong công tử cứu mạng.
Vai nàng run lên và đôi mắt đầy lệ. Sĩ Mệnh nghe lòng bất nhẫn, vỗ về nàng :
– Nếu cô nương hứa sẽ không tái phạm, ta sẽ đứng ra thu xếp việc này.
Cô bé gật đầu lia lịa :
– Tiểu muội xin thề sẽ không đổ nước tương, nước canh vào bất cứ ai nữa.
Lúc này, chàng công tử thế gia kia đã đến nơi. Gã chỉ mặt Sĩ Mệnh, gầm lên :
– Té ra con bé xú quái kia là người của ngươi. Mau bắt đền áo mới cho ta.
Cửu Hoàn Đao vội đứng lên :
– Xin Quách thiếu gia bớt giận. Tại hạ sẽ bồi thường chiếc áo này.
Họ Quách cười nhạt :
– Tấm trường bào này ta đã may trong dịp du ngoạn Bắc Kinh với giá ba trăm lượng bạc. Tính luôn chi phí đi lại là ngàn lượng.
Giang Tiểu Quân biến sắc :
– Sao công tử lại ép người thái quá như vậy? Dẫu sao chúng ta cũng là chỗ quen biết mà.
Gã công tử cười cao ngạo :
– Ngươi cũng biết ta là người tôn quý, mỗi tấc vải trên thân đều là vàng ngọc. Nếu không có bạc thì đừng xía vào. Ta sẽ bắt con bé khốn khiếp kia đánh cho hả giận.
Cửu Hoàn Đao thấy sát khí lóe lên trong mắt Ma Ảnh Tử, gã vội níu áo thì thầm :
– Đừng đại ca. Quách Dương Minh là ái tử của Tuần phủ An Khánh. Nếu giết gã thì cơ nghiệp của tiểu đệ sẽ tan tành. Thân này không tiếc nhưng còn thuyết thê và năm đứa tiểu hài ở nhà.
Sĩ Mệnh điềm đạm bảo họ Giang :
– Các hạ cứ xuất ra ngàn lượng bạc trả Quách cho công tử, sau này ta sẽ hoàn lại.
Ma Ảnh Tử cười lạnh :
– Thiếu chủ cứ yên tâm, thuộc hạ có mang theo.
Gã móc hầu bao lấy ra tấm ngân phiếu ngàn lượng bạch ngân. Tờ giấy bạc bay đến trước mặt đối phương, lơ lửng một lúc rồi mới rơi xuống. Lúc này họ Quách mới nhận ra vẻ mặt đáng sợ của người áo xanh. Gã khẽ rùng mình, cầm lấy ngân phiếu bước về bàn mình. Lát sau, gã cùng đám con cháu nhà đại phú xuống lầu đi mất.
Sĩ Mệnh quay sang bảo cô bé mặt rỗ :
– Cô nương còn trẻ tuổi sao dám một mình dong ruổi, chọc ghẹo thiên hạ? Phụ mẫu ở nhà chắc đang nóng lòng mong đợi, hãy về đi thôi.
Cô bé buồn rầu cúi mặt :
– Tiểu muội mồ côi từ nhỏ, làm gì có ai đợi đâu mà về.
Bỗng nàng dậm chân tức tối trách chàng :
– Công tử quả là người nhu nhược, yếu hèn. Sao không giết quách gã đáng ghét ấy đi để đỡ tốn ngàn lượng bạc?
Sĩ Mệnh vẫn dịu dàng :
– Cô nương có lỗi với người ấy. Ta đã nhận lời gánh vác thì phải bồi thường thỏa đáng, giết người đâu phải là chuyện tốt lành.
Cô bé bất ngờ vung tay tát mạnh vào mặt Sĩ Mệnh rồi hỏi :
– Công tử có giận tiểu muội không?
Ma Ảnh Tử thì muốn nổi điên lên nhưng Sĩ Mệnh vẫn thản nhiên xoa má :
– Ta không giận vì cô nương mồ côi từ thuở nhỏ, thiếu tình thương và sự giáo dưỡng của phụ mẫu, nên tính nết khác thường. Ta cũng mồ côi nhưng may mắn được lớn lên trong sự chăm nom, dạy dỗ của ân sư nên có khác cô nương một chút.
Cô bé sững người, đôi mắt tinh anh nhìn chàng chăm chú, đưa bàn tay sờ mặt chàng rồi bất giác hôn lên bên má bị đau. Nàng bật cười khúc khích :
– Tiểu muội xin bái phục, hẹn có ngày gặp lại!
Dứt lời, nàng như cánh én bay vụt ra cửa sổ, còn vọng lại tiếng cười trong như ngọc.
Sĩ Mệnh ngượng ngùng bảo :
– Té ra nàng ấy là cao thủ võ lâm, thế mà ta không nhận ra.
Ma Ảnh Tử quay sang nhìn thì thấy lão nhân lưng gù kia cũng đã mất dạng. Gã nhăn mặt :
– Dường như lão già này theo để bảo vệ vị tiểu cô nương tinh quái kia.
Sĩ Mệnh nói qua chuyện khác :
– Giang các hạ có thể cho biết tư cách của Tuần phủ An Khánh?
Cửu hoàn đao tức tối nói :
– Quách phủ doãn là hạng tham quan sâu dân mọt nước. Lão thẳng tay vơ vét tài sản của bách tính, do ỷ vào thế lực của Hoàng hậu nên chẳng sợ gì ai.
Ma Ảnh Tử cười lạt :
– Chỉ cần nhìn con trai lão ta là biết rồi. Có ngày ta sẽ đến thăm tư dinh họ Quách, trừ hại cho lê thứ.
Sĩ Mệnh buồn rầu bảo :
– Triều đình không có trung thần nên bọn gian nịnh mới hoành hành như vậy. Bọn hiệp khách chúng ta không có cơ hội tham chính, để chấn chỉnh triều cương, thì đành dùng cách tiêu cực này mà tạo phúc cho lê thứ.
Hạ Sầu Miêu thấy chủ nhân tán thành, gã khoan khoái nói :
– Thiếu chủ quả là dòng dõi bậc trung thần, một lòng vì dân vì nước. Dung tha kẻ thù riêng mà lại thẳng tay với kẻ thù của bách tính, thuộc hạ hết lòng bái phục.
Hoàng hôn đã buông xuống, cơn mưa thu ập đến khiến trời đất tối tăm mù mịt. Sĩ Mệnh và Ma Ảnh Tử ở lại Phúc Ninh đại tửu quán một đêm, sáng ra mới lên đường.
Được vài dặm, Sĩ Mệnh cười bảo :
– Xem như ta nợ của các hạ ngàn lượng bạc. Để đến Hoàng Sơn, ta hỏi xin đại sư huynh mà hoãn lại. Ông ta xuất thân từ một nhà đại phú nên giàu hơn ta.
Hạ Sầu Miêu ngượng ngùng nói :
– Xin thiếu chủ đừng nói như vậy. Tính mạng và tài sản của nhà họ Chung là do Tây Môn đại nhân ban cho. Mười ba năm trước, bọn thuộc đã điều tra ra việc Tùy Vân đạo trưởng ôm thiếu chủ đào tẩu, đem tin này về báo lại với gia phụ mẫu. Họ vui mừng khôn xiết quyết định dành mười vạn lượng vàng để tặng thiếu chủ, nếu người còn sống.
Sĩ Mệnh tủm tỉm cười :
– Ta đã quen nếp sống giản dị, đâu cần đến số vàng lớn như vậy?
Hạ Sầu Miêu nghiêm giọng :
– Đó là di chỉ của tiên phụ. Bọn thuộc hạ chỉ biết tận lực thi hành. Chỉ mong cho thiếu chủ đừng phụ lòng người quá cố.
Sĩ Mệnh im lặng một lát rồi hỏi :
– Tứ vị vì chuyện của tiên phụ mà bỏ bê phụ mẫu. Nay họ đều đã thất lộc, sao không về nối nghiệp?
Sầu Miêu mỉm cười bí ẩn :
– Chung gia có đến năm người con. Ngũ muội là người tinh minh tháo vát, một mình quán xuyến mọi việc trong ngoài khiến cơ nghiệp ngày càng phát triển. Nhờ vậy, bọn thuộc hạ mới được thảnh thơi như thế này đây.
Sĩ Mệnh tán dương :
– Lệnh muội quả là đáng khâm phục. Nhưng chẳng lẽ lại không xuất giá để lỡ làng cả tuổi xuân?
Hạ Sầu Miêu cười buồn :
– Gia muội được trời ban cho nhan sắc thiên kiều bá mỹ, là một trong võ lâm Tứ đại mỹ nhân, danh hiệu là Sơn Tây Hằng Nga Chung Hải Mỹ. Chỉ vì lời trăn trối của tiên phụ mà đến tuổi hai mươi bốn vẫn chưa lấy chồng.
Sĩ Mệnh hiếu kỳ hỏi :
– Lệnh tôn đã dặn dò điều gì?
– Tiên phụ đã dạy rằng khi nào đã trao tận tay số vàng mười vạn lượng kia cho hậu nhân của Tây Môn thượng thư thì mới được xuất giá.
Sĩ Mệnh choáng váng :
– Tai hại thật! Nếu như ta không còn sống thì sao?
Ma Ảnh Tử thản nhiên đáp :
– Tiên phụ không nói đến trường hợp này.
Sĩ Mệnh bối rối :
– Nếu thế thì ta phía sớm đến Sơn Tây giải quyết việc này. Nhan sắc nữ nhân mỏng manh như hoa. Sớm nở tối tàn, không thể để nàng chịu thiệt thòi thêm nữa.
Ma Ảnh Tử hân hoan đáp :
– Phải lắm! Xong việc thám hiểm Ngũ Hành cung, mời thiếu chủ đến tệ trang một chuyến. Thiếu chủ cứ nhận cho ngũ nha đầu yên tâm lo hạnh phúc riêng. Số vàng gởi lại chừng nào lấy cũng được.
Nếu Sĩ Mệnh không lơ đễnh nhìn về phía đỉnh ngọn Hải Bạt thì đã nhận ra vẻ đắc ý của Ma Ảnh Tử.
Hai người tiếp tục đi và nhận ra có nhiều cao thủ võ lâm vượt qua mặt mình.
Hàng trăm người quất ngựa vun vút, gò lưng phi nước đại. Đêm qua mưa lớn nên đường quan đạo không có bụi. Nhưng nước từ những vũng bùn bắn tung tóe, ướt cả áo Sĩ Mệnh và Hạ Sầu Miêu.
Ma Ảnh Tử giận dữ lầm bầm :
– Bọn họ đi đâu mà gấp như cha chết vậy?
Bỗng từ trên ngọn cây thụ già có tiếng cười trong trẻo quen thuộc cất lên. Và một bóng người nhỏ bé nhảy xuống đứng sau yên ngựa Sĩ Mệnh, thản nhiên vòng tay ôm vai chàng.
Vị tiểu cô nương xấu xí hôm qua thì thầm vào tai chàng :
– Công tử có mừng khi gặp lại tiểu muội hay không?
Gương mặt cô tuy rỗ chằng chịt nhưng đôi mắt phượng long lanh, đôi môi xinh đỏ tựa hoa đào, giọng nói êm ái khiến lòng người thư thái. Bất giác Sĩ Mệnh cảm thấy như gặp lại người thân. Chàng gật đầu rồi hỏi lại :
– Sao hiền muội quay lại đây sớm như vậy? Còn lão nhân lưng gù đâu rồi?
Cô bé cười vang :
– Té ra đại ca cũng chẳng hề ngu ngốc chút nào cả. Lão nhân ấy chính là nội tổ của tiểu muội. Còn việc quay lại sớm là vì tiểu muội quên hỏi tên đại ca.
Nghe tiểu nha đầu kia mau mắn gọi mình là đại ca, lòng cũng vui vui, chàng cười bảo :
– Tên ta là Tây Môn Sĩ Mệnh, còn hiền muội?
– Tiểu muội là Doãn Khả Khanh.
Sĩ Mệnh chỉ sang Ma Ảnh Tử :
– Vị này là Hạ Sầu Miêu, người thân của ta.
Khả Khanh vui vẻ vòng tay chào :
– Tiểu muội bái kiến Hạ đại ca. Chắc hôm qua đại ca giận tiểu muội lắm phải không?
Vẻ thơ ngây, tinh nghịch của nàng đã khiến Ma Ảnh Tử mềm lòng. Gã cười đáp :
– Đúng vậy, cô nương quả là người tai quái, nghịch ngợm, dám giả đò yếu đuối để qua mắt bọn ta.
Khả Khanh tung mình sang phía Ma Ảnh Tử, đạp nhẹ vào mông ngựa, lấy đà rơi xuống cổ tuấn mã của Sĩ Mệnh. Theo phản ứng tự nhiên, chàng vội dgiơ tay đỡ lấy cô bé ngồi vắt vẻo trong lòng chàng, ríu rít nói :
– Nhị vị đại ca biết không, tiểu muội suốt đời sống ngoài Đông Hải, lúc nào cũng chỉ thấy trời và biển. Đầu năm nay, lão gia dắt vào Trung Nguyên thăm bằng hữu. Tiểu muội say mê cảnh đẹp đại lục nên van nài nội tổ cho ở lại, đừng về đảo Bồng Lai nữa. Người bảo võ lâm Trung thổ toàn là bọn xấu xa. ác độc, chẳng nên gần làm gì. Tiểu muội bèn đánh cuộc với ông rằng sẽ tìm ra người tốt. Từ Tứ Xuyên đến đây, tiểu muội đã trêu chọc hàng trăm người và ăn đòn biết bao nhiêu trận. May mà gặp Tây Môn đại ca là bậc chính nhân, lượng rộng như biển nên tiểu muội mới thắng cuộc. Lão gia chịu thua, định đi Tô Châu tìm chỗ ở mới. Nhưng tiểu muội lại muốn theo đại ca nên mới lén trốn đi.
Sĩ Mệnh bối rối :
– Ta dù rất mến Doãn hiền muội nhưng chẳng thể mang theo được. Thứ nhất là sẽ đắc tội với lệnh tổ, thứ hai là tiền đồ của ta đầy hung hiểm và bất trắc, chẳng thể đưa hiền muội vào chỗ chết được.
Khả Khanh tròn mắt hỏi :
– Đại ca hiền lành, nhân hậu như thế này mà cũng có người muốn hại hay sao?
Chàng cười buồn :
– Ta mang nặng gia cừu trên vai mà chẳng có hy vọng báo phục được. Kẻ đại cừu kia có võ công quán tuyệt thiên hạ và thế lực bao trùm cả võ lâm. Khi lão biết được danh tính của ta thì mạng này khó mà giữ nổi. Ta không sợ chết nhưng cũng không muốn người thân bị hại lây.
Khả Khanh bật cười :
– Đại ca đừng lo, tiểu muội sẽ hợp lực cùng đại ca để báo thù. Lúc ấy lão gia tổ cũng chẳng thể đứng ngoài, ông mà chịu ra tay thì không ai địch lại.
Ma Ảnh Tử nãy giờ trầm ngâm suy nghĩ. Nghe Khả Khanh nói vậy, gã hỏi ngay :
– Phải chăng lệnh tổ chính là Hỏa Quy lão tổ Doãn Hân Yến?
Khả Khanh tròn mắt :
– Té ra Hạ đại ca cũng biết gia tổ ư?
Sĩ Mệnh cũng giật mình, khẽ ngâm:
Thiên Hạc vân trung khiếu
Ngũ Hành phong thượng du
Địa Long nam hoang ân
Hỏa Quy Đông Hải cư.
Thiên Hạc chân nhân đã từng đọc cho chàng nghe bài đồng dao này.
Khả Khanh bật cười :
– Tiểu muội cũng từng nghe lão gia tổ đọc bài này. Nhưng khi hỏi thì ông chỉ cười mà không giải thích.
Sĩ Mệnh dịu giọng :
– Hai chữ đầu mỗi câu là danh hiệu của bốn vị võ lâm đại kỳ nhân. Thanh danh của họ lẫy lừng từ năm mươi năm trước.
– Té ra gia tổ đã từng vùng vẫy ở Trung Nguyên.
Cô bé bỗng che miệng ngáp rồi dựa vào lòng Sĩ Mệnh ngủ rất ngon lành. Sĩ Mệnh thấy nàng chẳng chịu rời, đành phó mặc sự việc, tiếp tục phóng ngựa về Hoàng Sơn.
Hơn khắc sau, nàng tỉnh giấc, lại che miệng ngáp dài rồi cười rất tươi. Nụ cười trẻ thơ làm ấm lòng Sĩ Mệnh.
Khả Khanh nói :
– Tiểu muội quên mất chưa nói cho đại ca biết lý do vì sao đám người đáng ghét kia lại cuống cuồng lên như vậy. Hai tháng trước, tiểu muội và gia tổ từ Tứ Xuyên trở lại biển Đông, đi đến đâu cũng nghe đồn rằng Ngũ Hành cung ở dưới chân núi Liên Hoa trong rặng Hoàng Sơn. Có điều rất lạ là tin tức lan đi theo một thứ tự nhất định, từ xa đến gần. Địa phương càng xa An Khánh thì lại càng nhận được tin sớm hơn.
Ma Ảnh Tử choáng váng :
– Khốn nạn thực! Thật là uổng công hai mươi năm tìm kiếm. Nhưng vì sao lại có kẻ đem vị trí của bí cung tiết lộ ra khắp giang hồ như vậy?
Khả Khanh cười bảo :
– Nếu Tây Môn đại ca muốn vào Ngũ Hành cung thì tiểu muội sẽ về nhờ gia tổ giúp đỡ.
Sĩ Mệnh chưa kịp nói gì thì nàng đã như cánh én rời lòng chàng, phi ngược về phía sau. Thân pháp của nàng cực kỳ nhanh nhẹn.
Ma Ảnh Tử bật cười :
– Vị tiểu cô nương này thật kỳ quái, tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm.
Sĩ Mệnh ghìm cương cho ngựa đi nước kiệu, rồi bảo :
– Bốn mươi năm trước, Võ lâm Tứ đại kỳ nhân đã hẹn nhau lên đỉnh Thái Sơn luận võ. Cuối cùng thì gia sư, Thiên Hạc chân nhân đã lần lượt đả bại cả ba người kia. Như vậy, ta cũng chẳng cần tuyệt học của Ngũ Hành lão nhân làm gì. Còn việc vị trí của Ngũ Hành cung bị tiết lộ, ta cho rằng đây là âm mưu thâm độc của kẻ nào đó. Qua lời Khả Khanh nói, việc tung tin được thực hiện có kế hoạch để đông đảo hào kiệt võ lâm có mặt cùng một thời điểm.
Ma Ảnh Tử nhăn mũi :
– Thuộc hạ cũng nghĩ như vậy và cho rằng âm mưu này có liên quan đến Giang Nam Thần Kiếm Dư Tâm Nhiên.
Sĩ Mệnh nghĩ đến Tây Hồ Tiên Nữ Dư Tiểu Phàm, lòng nghe nặng trĩu, thúc ngựa phi mau.
Chiều hôm sau, hai người đến chân rặng Hoàng Sơn, nhận ra mấy ngàn hảo hán các lộ đã tràn ngập chân ngọn Liên Hoa sơn. Sĩ Mệnh thở dài, thương cho đám người hiếu kỳ và nhiều tham vọng. Chàng đi tiếp thêm sáu dặm, đến ngọn Hải Bạt.