Bạn đang xem truyện online miễn phí Chương 106: Hôm Nay Là Ngày Vui Nhất Trong Đời Cô tại dua leo tr
*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.“Nhi thần chưa bao giờ oán trách phụ hoàng.”Tay Giang đế dừng giữa không trung, trên tay còn kẹp một quân cờ đen, tựa hồ rất ngạc nhiên.
“Vậy thì đi đi.”
Một lúc sau, ông nhẹ nhàng đặt quân cờ xuống, nói.
Giang Lang sửng sốt, không thể tin Giang đế lại đồng ý dễ dàng như vậy. Liễu Công đứng ở một bên cũng sững người.
Giang Lang mừng như điên, hưng phấn nói: “Phụ hoàng yên tâm, nhi thần sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ lần này, tuyệt đối không để Tùy quốc chiếm được chút lợi ích nào từ Giang quốc chúng ta!”
Giang Lang hận không thể hét lên một trận thống khoái.
Khoảng thời gian này, mọi bất bình và tủi nhục mà gã chịu đựng ở Mộ Vân Quan đều biến mất chỉ bằng một câu nói của Giang đế. Gã biết mà, ngày đó phụ hoàng thỏa hiệp, để Giang Uẩn đưa gã lên Bắc là có nỗi khổ riêng. Phụ hoàng chỉ lợi dụng Giang Uẩn bảo vệ biên quan, nay mối nguy ở Mộ Vân Quan được gỡ bỏ, Giang Uẩn đã sớm mất đi giá trị lợi dụng, phụ hoàng tuyệt đối sẽ không để nó độc chiếm quân quyền.
Phụ hoàng để gã qua đây nằm gai nếm mật, ẩn nhẫn chịu đựng, cũng chính là vì đợi đến thời khắc mấu chốt giúp gã thượng vị, hưởng thụ thành quả thắng lợi.
Gã mãi mãi là đứa con trai yêu thích nhất của phụ hoàng.
Đợi Giang Lang lui xuống, Liễu Công không nhịn được cẩn thận hỏi: “Vì sao bệ hạ lại đồng ý yêu cầu của Sở vương?”
Sở vương vốn không can dự sâu vào chiến sự, năng lực trị nước càng không thể so với tiểu điện hạ. Xưa nay bệ hạ luôn công tư phân minh, chưa bao giờ vì tư tình mà làm lỡ quốc sự, hành động lần này quả thật bất thường.
Giang đế không trả lời mà chỉ hỏi: “Liễu Cửu, ngươi có biết, người sống trên đời, điều trí mạng nhất là gì không?”
Liễu Công ngẩn người.
Giang đế cười lạnh một tiếng.
“Không phải ngu ngốc, mà là dốt nát.”
Liễu Công nhìn ánh mắt lạnh lẽo vô tình của Giang đế, đang suy ngẫm ý nghĩa của câu nói này, đột nhiên ông cảm nhận được cơn ớn lạnh chạy dọc từ bàn chân đến sống lưng.
…
Hôm nay là một ngày gió bão.
Nhưng trong lòng Giang Lang lại sảng khoái vô cùng.
Gã tắm rửa sạch sẽ, thay bộ quan bào lộng lẫy dành riêng cho Sở vương, ngồi cỗ xe do Giang đế đích thân ban tặng, dẫn theo một nhóm mưu sĩ tướng lĩnh xuất phát từ Mộ Vân Quan đến Phong Hỏa đài.
Phong Hỏa đài nằm tiếp giáp với doanh trại quân Tùy, tuy nhiên hai bên đã quyết định hòa đàm nên không cần phải lo về vấn đề an toàn.
Giang Lang tràn đầy ý chí chiến đấu, nóng lòng muốn nhân cơ hội này lập công. Gã bắt đầu bày ra dáng vẻ chiêu hiền đãi sĩ, khiêm tốn mời Phạm Chu và hai vị mưu sĩ khác lên xe, hỏi thăm bọn họ những chi tiết cụ thể của chuyến hòa đàm lần này.
“Nghe nói Phạm tiên sinh thích ăn bánh ngọt, đây là bánh táo bổn vương đặc biệt nhờ cung nhân làm cho tiên sinh, tiên sinh thử xem, có vừa miệng không?”
Giang Lang ân cần ra lệnh cho cung nhân mang một đĩa bánh táo hình hoa sen lên.
Phạm Chu áy náy nói rằng gần đây ông bị đau răng, e là phải phụ ý tốt của Sở vương.
Giang Lang cũng không phải lần đầu tiên quen biết Phạm Chu, gã biết người này mềm cứng không ăn, rất khó đối phó, nhưng Phạm Chu là đệ nhất mưu sĩ dưới trướng Giang Uẩn, học rộng biết nhiều, lại tài hoa hơn người, có uy danh cao trong số các mưu sĩ. Thu phục được Phạm Chu mới có thể thu phục được chúng mưu sĩ khác của cung Lan Hinh, bất kể thế nào đi nữa Giang Lang cũng phải lôi kéo được ông.
Giang Lang cũng không tức giận, ngược lại còn khiêm tốn nói: “Là bổn vương suy nghĩ không chu đáo, bổn vương sẽ nhờ người pha cho tiên sinh một ít trà kim ngân để giải nhiệt.”
Phạm Chu che má nói: “Không dám làm phiền Sở vương điện hạ, điện hạ có điều không biết, thảo dân bị dị ứng với hoa kim ngân, chạm vào thứ này sẽ nổi mẩn đỏ khắp người. Chuyện hòa đàm lần này quan trọng, thảo dân không nên uống thì hơn.”
Lòng kiên nhẫn của Giang Lang cũng có hạn.
Gã nói: “Vậy nước lọc hẳn là được nhỉ? Tiên sinh nhất quyết không dùng đồ của bổn vương, là sợ bổn vương hạ độc, hay là không muốn tuân theo quân lệnh giúp đỡ bổn vương hoàn thành nhiệm vụ lần này?”
Phạm Chu đành buông tay, miễn cưỡng uống một ngụm nước mà gã đưa cho.
Giang Lang ngồi ở phía trước, nói: “Về chuyến hòa đàm hôm nay, tiên sinh đã soạn ra những điều lệ gì, có thể cho bổn vương xem không, để bổn vương chuẩn bị đôi chút.”
Phạm Chu nhớ tới lời dặn của Giang Uẩn, bèn lấy ra một quyển
sổ con* giống như tấu chương, đưa cho Giang Lang.
*Sổ con – 折子:“Đây là do điện hạ đích thân ghi chép, điện hạ nói, mong Sở vương ghi nhớ tất cả nội dung bên trên, tốt nhất là thuộc lòng không sót một chữ, chớ để mất mặt Giang quốc chúng ta.”
Giang Lang cảm thấy khó chịu.
Mất mặt Giang quốc là có ý gì? Chỉ có Giang Uẩn mới có thể đại diện cho Giang quốc, còn Giang Lang gã thì không thể?
Giang Lang hừ lạnh nói: “Bổn vương mới là sứ thần hòa đàm do phụ hoàng đích thân khâm định, chuyến đi lần này phải làm thế nào, dĩ nhiên đều do bổn vương quyết định, không đến lượt một tên Thái tử như y dạy dỗ bổn vương.”
Phạm Chu và Giang Lang đã ở chung suốt mùa xuân, mỗi ngày đều đấu trí đấu dũng, dĩ nhiên ông biết tuy bên ngoài Sở vương làm ra vẻ khoan dung độ lượng, nhưng thực chất lại lòng dạ hẹp hòi, chỉ quan tâm lợi ích trước mắt, hoàn toàn không xứng làm quân chủ.
Bảo ông trung thành với một người như vậy, ông thà nhảy sông tự vẫn còn hơn.
Dẫu biết cha mẹ sinh con trời sinh tính, mỗi người có tính cách khác nhau, nhưng Sở vương và điện hạ thật sự khác biệt quá lớn.
Phạm Chu nghiêm túc nói: “Cuộc hòa đàm lần này rất quan trọng, thảo dân hy vọng điện hạ lấy đại cục làm trọng. Những quyển sổ con này điện hạ hãy đọc kỹ một chút.”
Giang Lang cũng biết, trước mắt gã cần sự giúp đỡ của đám mưu sĩ dưới trướng Giang Uẩn, muốn hoàn thành nhiệm vụ hòa đàm lần này, tốt nhất không nên đối nghịch với Phạm Chu.
Gã nhận lấy, nói: “Tiên sinh yên tâm, bổn vương sẽ đọc thật kỹ.”
Phạm Chu lại lên tiếng: “Còn một chuyện nữa, Thái tử Tùy quốc có tính tình ngang ngược, thủ đoạn tàn ác, là một tên Diêm vương mặt lạnh danh xứng với thực, đợi lát nữa gặp mặt, điện hạ nhất định phải chú ý lời nói và hành động của mình, tốt nhất đừng khiêu khích người này.”
Đương nhiên Giang Lang đã nghe qua tiếng ác của Tùy Hành, cũng biết vị Thái tử Tùy quốc này tuy tuổi còn trẻ nhưng đã có chiến công hiển hách, uy danh vang khắp Giang Bắc, đội thiết kỵ dưới trướng hắn còn có danh xưng đáng sợ là “Huyết đồ”.
Người như vậy, dĩ nhiên Giang Lang sợ hãi không dám chọc vào.
Nhưng gã đột nhiên nghĩ tới điều gì đó, nhướng mày tự đắc nói: “Bổn vương nghe nói, Thái tử Tùy quốc hận điện hạ chúng ta thấu xương, có phải vậy không?”
Phạm Chu rất chướng mắt hành vi vui khi người khác gặp họa này của Giang Lang.
Ông nghiêm túc nói: “Điện hạ là Đại hoàng tử Giang quốc, là trưởng tử của bệ hạ, còn là huynh trưởng của điện hạ, sao có thể tin vào mấy tin đồn vô căn cứ đó?”
“Tin đồn vô căn cứ?”
Giang Lang cười khinh miệt: “Chuyện này ở Giang Nam Giang Bắc cũng đâu phải là bí mật gì, tiên sinh không cần che giấu thay cho Thái tử. Theo bổn vương thấy, may là phụ hoàng sáng suốt, hôm nay phái bổn vương đến chủ trì đại cục, nếu thật sự để Thái tử đến đây, nếu làm không tốt, nói không chừng sẽ trực tiếp chọc giận vị Thái tử Tùy quốc kia, dẫn đến mâu thuẫn giữa hai nước.”
Phạm Chu không trả lời.
Giang Lang càng thêm đắc ý, bắt đầu nghiêm túc nghiên cứu sổ con trong tay.
Ngày quân Tùy phát động cuộc tấn công với quy mô lớn ở Mộ Vân Quan, tuy Giang Lang bị nhốt trong cung, nhưng gã vẫn nghe thấy tiếng vó ngựa rung chuyển trời đất cùng với sát khí nặng nề mà bức tường thành cao lớn kia không thể ngăn cản được.
Sức mạnh quân Tùy công thành cũng giống như sức lực Giang Uẩn cố gắng thủ thành.
Lẽ ra đó phải là một trận chiến đẫm máu và bi thảm.
Nhưng Thái tử Tùy quốc vốn có dã tâm bừng bừng kia lại đồng ý dùng phương thức đối chiến cờ trận, đồng thời còn muốn bắt tay nghị hòa với Giang Uẩn.
Chuyện này chắc chắn có điều gì đó mờ ám.
Với sự thù hận của Thái tử Tùy quốc đối với Giang Uẩn trong lời đồn, Giang Lang tin chắc, nhất định là Giang Uẩn đã dùng vô số lợi ích trao đổi để Tùy Hành thỏa hiệp lui binh.
Giang Lang hi vọng có thể tìm ra một ít chứng cứ hoặc manh mối nào đó từ số sổ con này.
Nhưng thứ viết trên sổ con đều là những chính sách cụ thể về lợi ích chung giữa nam bắc, còn có giá cả và hình thức trao đổi trà ngựa, Giang Lang còn chưa kịp vạch lá tìm sâu thì xe ngựa đã dừng trước Phong Hỏa đài.
Giang Lang xuống xe, gã lập tức nhìn thấy hai hàng kỵ binh đang dàn trận ở bên ngoài Phong Hỏa đài.
Những kỵ binh này đều cao lớn cường tráng, vẻ mặt nghiêm nghị, trên lưng mang theo đại đao, đứng vô cảm như tượng đá, cả người toát ra hơi thở và sát khí đẫm máu, một người sinh ra trong hoàng thất được nuông chiều từ bé như Giang Lang chưa từng nhìn thấy cảnh tượng này bao giờ.
Đây là một đội quân dũng mãnh mà chỉ có chiến trường khốc liệt phương Bắc mới rèn luyện ra được.
Lúc Giang Lang đi ngang qua những binh lính này, gã cảm giác như có vô số thanh kiếm vô hình treo trên đầu mình. Những thanh kiếm đều chĩa xuống, nhắm vào cổ gã, đến cả bầu không khí xung quanh cũng ngập tràn hơi thở lạnh lẽo và sát ý nặng nề, khiến gã không kiềm chế được run rẩy.
Phàn Thất cầm đao từ bên trong bước ra, lúc nhìn thấy Giang Lang, lập tức cau mày hỏi: “Ngươi là ai?”
Giọng hắn vang dội, hai mắt trừng to, dáng vẻ hung hãn, đứng một chỗ chẳng khác gì môn thần giữ cửa, không ai dám đắc tội.
Giang Lang cố giữ bình tĩnh, nói: “Bổn vương là Sở vương Giang Lang.”
“Sở vương?”
Phàn Thất nhổ một ngụm nước bọt.
“Tên mặt trắng này ở đâu ra, dám tùy tiện xông vào doanh trại quân Tùy?”
Phạm Chu tiến lên một bước, giới thiệu: “Đây là Đại hoàng tử Giang quốc của chúng ta. Hôm nay phụng mệnh bệ hạ đến hòa đàm với Thái tử điện hạ nước ngài.”
Phàn Thất lại liếc Giang Lang một cái, nhìn thấy hai chân gã đang run rẩy.
Phàn Thất lại nhổ nước bọt.
“Giang đế hết con trai rồi à? Sao lại phái một kẻ hèn nhát như vậy tới đây, Dung Dữ điện hạ của các ngươi đâu?”
Còn bày đặt Đại hoàng tử Giang quốc, nhìn kém xa hồ ly nhỏ nhiều.
Phạm Chu nói: “Thân thể điện hạ không khỏe, không thể tới được, nhưng điện hạ đã sai ta mang một lá thư đến cho Thái tử Tùy quốc, nhờ Phàn tướng quân giúp đỡ đưa thư.”
Phạm Chu lấy ra một lá thư từ trong tay áo, đưa cho Phàn Thất.
Phàn Thất nghi ngờ nhận lấy, bảo bọn họ đợi bên ngoài, sau đó quay người vào trong.
Giang Lang bất mãn nhìn Phạm Chu: “Sao bổn vương lại không biết gì về lá thư đó?”
Trong mắt Giang Lang, đó rất có thể là bằng chứng Giang Uẩn thông địch bán nước!
Phạm Chu không kiêu ngạo cũng không xiểm nịnh, đáp: “Đó là thư tay của điện hạ gửi cho Thái tử Tùy quốc. Theo quy định, Sở vương điện hạ không có tư cách đọc.”
Giang Lang giận không có chỗ xả, nhưng gã không dám làm gì.
Từ Kiều không ngờ Giang đế lại đột nhiên đổi người, nhìn Tùy Hành cầm lá thư trong tay, nhíu mày đọc, ông thử hỏi: “Dung Dữ điện hạ đã nói gì?”
Tùy Hành: “Y nói, mong cô hạ thủ lưu tình, đừng hành hạ người tới chết.”
Từ Kiều: “…”
Từ Kiều hỏi: “Vậy điện hạ định thế nào?”
Tùy Hành đặt bức thư vào lòng, cẩn thận cất đi, sau đó cười nói: “Hôm nay tâm trạng cô tốt, đương nhiên phải chơi đùa vui vẻ với Sở vương một phen.”
Giang Lang đứng trước cửa gió, quan phục bị gió mạnh thổi tung, chờ gần một lúc, vẫn không thấy Phàn Thất ra ngoài. Gã không kiềm được tức giận, hỏi Phạm Chu: “Tên Thái tử Tùy quốc này có ý gì? Sao hắn dám đón tiếp trễ nải như vậy? Hắn không muốn hòa đàm nữa ư?”
Phạm Chu nói: “Thảo dân đều nghe theo chỉ thị của điện hạ, nếu điện hạ cảm thấy không ổn, chúng ta có thể hủy bỏ hòa đàm, quay về chỗ cũ.”
Dĩ nhiên Giang Lang không cam tâm trở về, điều đó đồng nghĩa với việc gã vô năng và bất lực cỡ nào. Giang Lang nghiến răng, nói: “Tiếp tục đợi, bổn vương không tin, tên Thái tử Tùy quốc đó dám để bổn vương đứng đây cả ngày.”
Mà Tùy Hành quả thật không để Giang Lang đợi cả ngày, ước chừng gần một khắc, Tùy Hành đã ra lệnh cho Giang Lang vào lều tạm.
Trong lều, các mưu sĩ tướng lĩnh của Tùy quốc đang ngồi ở một bên, giữa lều là một cái nồi lớn không biết đang nấu thứ gì, khắp không khí tràn ngập mùi thịt. Tùy Hành cầm chén rượu, vẻ mặt lười biếng ngồi sau bàn, trên bàn còn đặt một con dao đầu sói.
Mặc dù Giang Lang bất mãn việc đối phương cố ý chậm trễ, nhưng khoảnh khắc nhìn thấy Tùy Hành, oán hận trong lòng gã lập tức bị lông mày sắc bén cùng khí thế hung hãn tỏa ra từ trên người Tùy Hành đè xuống. Đó là vẻ đẹp sắc sảo không thể diễn tả bằng lời, giống như một lưỡi dao được tôi luyện trong hàn băng vạn năm.
Lúc đôi mắt sâu thẳm và lạnh lùng đó hờ hững nhìn gã, Giang Lang lại nhớ đến lưỡi dao vô hình treo trên cổ khi gã vừa bước vào đây.
Tùy Hành bảo Giang Lang cứ tự nhiên ngồi xuống.
Sau đó hắn chỉ vào cái nồi lớn bên trong lều nói: “Người đâu, chọn miếng to nhất, cắt ra cho Sở vương đi.”
Ngay lập tức có một binh lính bước tới, cầm con dao thọc vào nồi một lúc rồi lấy ra một miếng thịt mỡ trắng nóng hổi đưa cho Giang Lang.
Giang Lang được nuông chiều từ nhỏ, ăn uống toàn cao lương mỹ vị, chưa từng nhìn thấy miếng thịt mỡ nào to như vậy, cũng chưa bao giờ ngửi thấy mùi thịt nào nồng nặc như thế này. Kỳ thực Giang Lang nuốt không trôi, nhưng hôm nay là buổi gặp mặt của hai nước, sao gã có thể để người khác xem thường chỉ vì việc ăn uống cỏn con này? Giang Lang cầm con dao nhỏ bên hông lên, cắt một miếng thịt mỡ, mặc kệ mùi vị béo ngậy cho vào miệng, học theo những binh lính bên cạnh, sảng khoái nuốt một ngụm.
Dầu mỡ lập tức trào ra giữa hai răng, Giang Lang suýt nôn ra ngoài.
Tùy Hành hỏi: “Mùi vị thế nào? Có thơm không?”
“Rất ngon… rất… thơm.”
Giang Lang nhịn lại cảm giác buồn nôn, đáp.
Tùy Hành mỉm cười: “Thơm là đúng rồi. Đây là những chiếc xương chân hoàn chỉnh mà cô đặc biệt chặt ra từ đống xác chết đấy. Chúng đều là những xác chết mới ủ không quá mười hai giờ, khi nấu chín sẽ béo ngậy thơm nồng.”
Máu trên mặt Giang Lang lập tức rút cạn, gã nhìn Tùy Hành như đang nhìn ác quỷ, lại nhìn đám tướng lĩnh Tùy quốc đang ăn uống say sưa, gã đánh rơi con dao nhỏ trong tay, chưa đợi Tùy Hành nói xong, Giang Lang đã mạnh mẽ chạy ra khỏi lều, nôn mửa dữ dội.
Mãi đến khi nôn ra hết nước chua trong bụng, sắc mặt Giang Lang tái nhợt, loạng choạng bước vào.
Tùy Hành giả vờ khó hiểu hỏi: “Sao thế? Có phải món thịt này không hợp khẩu vị của Sở vương không? Người đâu, mau múc cho Sở vương một bát canh hầm làm ấm bụng.”
“Không, không cần đâu…”
Giang Lang lập tức từ chối.
Nhưng binh lính chỉ nghe theo lời Tùy Hành, vẫn kiên trì múc một bát canh đặt trước mặt Giang Lang.
Giang Lang chỉ liếc một cái, lại chạy ra ngoài lều nôn mửa.
…
Ở Mộ Vân Quan.
Giang Uẩn yên lặng đứng trên thành lầu, ngẩn người nhìn về phương xa.
Vân Hoài đứng ở phía sau nói: “Nếu điện hạ lo lắng, thuộc hạ có thể cùng điện hạ tới Phong Hỏa đài.”
Giang Uẩn nhìn một lúc rồi quay lại, mỉm cười nói: “Cô không có gì phải lo lắng, những việc cần chú ý cô đã dặn dò Phạm Chu cả rồi.”
“Thái tử Tùy quốc cũng sẽ lấy đại cục làm trọng.”
Trên đường về, Giang Uẩn tình cờ gặp Giang đế.
Giang Uẩn quỳ xuống hành lễ. Giang đế xua tay bảo mọi người lui xuống, hỏi: “Trong lòng ngươi vẫn oán trách phụ hoàng?”
Câu hỏi không đầu không đuôi này khiến cho sự yên tĩnh kỳ lạ bao trùm giữa hai người.
Giang Uẩn ngước mắt lên, lặng lẽ nhìn Giang đế, nói: “Nhi thần chưa bao giờ oán trách phụ hoàng.”
Giang đế từ trên cao nhìn xuống đứa con trai nhỏ của mình, cố gắng tìm kiếm câu trả lời thật sự từ ánh mắt đối phương, tuy nhiên, đôi mắt đó lại đen tuyền thuần khiết, giống hệt như mưa xuân.
Hoàn toàn không có chút oán hận nào.
Nó giống với người đó, nhưng cũng không giống.
Giỏi che giấu, giỏi ngụy trang hơn người đó nhiều.
Bình sinh Giang đế luôn lấy việc suy đoán lòng người làm niềm vui, ông không thích cảm giác nhìn không thấu mọi việc.
Ông hừ lạnh một tiếng, nói: “Ngươi nói dối.”
Giang Uẩn đáp: “Nếu phụ hoàng vẫn khăng khăng cho là như vậy, nhi thần cũng hết cách.”
Cơn giận của Giang đế hoàn toàn bị khơi dậy, ông đưa tay nâng cằm Giang Uẩn, buộc đôi mắt đen láy đó phải nhìn mình, nói: “Hôm nay trẫm đã thay ngươi diệt trừ mối họa, lẽ nào ngươi không nên cảm kích trẫm sao?”
Giang Uẩn mím chặt môi, không nói gì.
Giang đế ra lệnh: “Nói chuyện.”
Giang Uẩn đáp: “Nhi thần sẽ không. Bởi vì nhi thần biết, mọi thứ phụ hoàng áp đặt lên người nhi thần đều không phải là vì nhi thần, mà để cho người đó thấy. Phụ hoàng muốn dùng nhi thần kích người đó, cũng giống như dùng Sở vương kích nhi thần. Cho nên, nhi thần sẽ không vì việc phụ hoàng yêu thương Sở vương mà oán hận ngài, cũng không vì phụ hoàng dùng cách này trừng trị Sở vương mà cảm kích ngài.”
Nét mặt Giang đế đột nhiên cứng lại.
Sau đó ông nói: “Bây giờ, ngươi nói chuyện với trẫm ngày càng hỗn xược.”
“Có điều, ngươi nói rất đúng, trẫm sẽ luôn dung túng ngươi, để ngươi làm tốt chức trách của mình. Trên đời này, không một ai có thể đả động đến vị trí Thái tử của ngươi.”
“Nhưng ngươi vĩnh viễn đừng mong có được sự yêu thương của trẫm, trẫm mãi mãi chỉ cưng chiều Sở vương. Trẫm muốn để y biết, cái giá của việc rời xa trẫm!”
Nói xong, Giang đế cụp mắt, hy vọng có thể nhìn thấy chút tủi thân và bất bình trong mắt Giang Uẩn, dù chỉ một chút thôi cũng được. Nhưng không có, ông hoàn toàn không thấy gì cả.
Giang Uẩn lấy ra một mảnh giấy từ tay áo, nói: “Vật này, nhi thần nghĩ, có lẽ phụ hoàng sẽ có hứng thú.”
Giang đế nhận lấy mở ra xem, thế mà là lời thú tội có chữ ký của Giang Lang trên đó.
Giang Uẩn nói: “Tội thông địch bán nước, theo luật pháp là tội đáng chết. Chỉ cần nhi thần công khai vật này trước triều đình, Sở vương không thoát khỏi tội chết.”
Bàn tay Giang đế run lên vì tức giận.
Một lúc lâu, ánh mắt Giang đế âm trầm, ông hỏi: “Ngươi muốn thế nào?”
Giang Uẩn nói: “Nhi thần muốn dùng tờ giấy này đổi lấy một thứ từ phụ hoàng.”
“Thứ gì?”
“Tân đô.”
Giang đế nhíu mày.
Giang Uẩn tiếp lời: “Nhi thần muốn xây dựng một tòa đô thành mới ở Mộ Vân Quan, làm cứ điểm quan trọng trong việc nối liền nam bắc. Từ hôm nay, nhi thần sẽ đóng quân ở Tân đô, ban bố mọi quân lệnh chính trị liên quan đến việc giao lưu nam bắc. Nhi thần sẽ không quay về Giang đô, cũng không bao giờ làm con cờ để cho phụ hoàng giày vò người đó nữa.”
“Hỗn xược!”
Ánh mắt Giang đế lóe lên tia chớp, giơ tay ra, mạnh mẽ đánh xuống.
“Bệ hạ!” Liễu Công bất an đứng cách đó nửa thước, nhìn thấy cảnh tượng này, tim muốn vọt lên cổ họng, lập tức chạy tới quỳ trên mặt đất ngăn cản Giang đế.
Lòng bàn tay Giang đế run rẩy.
Giang Uẩn lau vết máu trên khóe miệng, nói: “Nhi thần đa tạ phụ hoàng thành toàn.”
Nói xong, y đứng dậy, nhặt tờ giấy rơi trên mặt đất, cung kính hành lễ, sau đó quay người rời đi.
“Điện hạ.”
Vân Hoài vốn đứng đợi bên ngoài tường thành, lúc thấy Giang Uẩn đi ra, trên gương mặt in năm dấu tay, khóe miệng còn có vết máu, sắc mặt hắn đột nhiên thay đổi, nói: “Điện hạ… vẫn ổn chứ?”
Giang Uẩn nhếch môi, y đứng trong gió, tà áo xanh tung bay, vẻ mặt thoải mái hơn bao giờ hết.
Y nói: “Đương nhiên là ổn.”
“Từ nhỏ đến lớn, hôm nay là ngày vui nhất trong đời cô.”
Tối đến, Sở vương Giang Lang kết thúc buổi gặp mặt trở về, hòa đàm vẫn diễn ra suôn sẻ. Tuy nhiên, lúc Giang Lang nhận lời mời đua ngựa bên ngoài Mộ Vân Quan với Thái tử Tùy quốc, gã “bất cẩn” té gãy chân, được cung nhân khiêng về.
Giang Lang đau đến mức chết đi sống lại, trên đường ngất đi vô số lần.